Thứ Tư, 14 tháng 3, 2012

Phân tích kỹ thuật chứng khoán phiên giao dịch ngày 14/3

HNX-Index cần phải chinh phục mốc 72 điểm với khối lượng tăng lên để tránh viễn cảnh về một bẫy tăng giá. Một vị thế mua cũng chỉ được xem xét khi điều này xảy ra. 
Diễn biến thị trường
· Cả hai chỉ số đã tăng trở lại trong phiên giao dịch ngày hôm nay. HNX có mức tăng tốt hơn so với chỉ số VN-Index;
· Khối ngoại bán ròng trên HOSE và mua ròng trên HNX về khối lượng;
· Khối lượng giao dịch khớp lệnh tăng trên HNX và giảm trên HOSE;
· HBB và SHB là tâm điểm giao dịch của thị trường trong phiên ngày hôm nay sau khi thông tin mua bán sáp nhập của hai cổ phiếu này xuất hiện trên báo chí với thông báo trái ngược nhau của hai bên.

Thứ Ba, 13 tháng 3, 2012

Phát hành và niêm yết chứng khoán


Phát hành chứng khoán
Khái niệm về phát hành chứng khoán: Việc chào bán lần đầu tiên chứng khoán mới gọi là phát hành chứng khoán. Nếu đợt phát hành dẫn đến việc đưa một loại chứng khoán của một tổ chức lần đầu tiên ra công chúng thì gọi là phát hành lần đầu ra công chúng.
Nếu việc phát hành đó là việc phát hành bổ sung bởi tổ chức đã có chứng khoán cùng loại lưu thông trên thị trường thì gọi là đợt phát hành chứng khoán bổ sung. Tuy nhiên, không phải mọi đối tượng đều được phát hành chứng khoán mà chỉ những chủ thể phát hành mới có được quyền này.  
Phương thức phát hành chứng khoán: Có 2 phương thức phát hành chứng khoán trên thị trường sơ cấp. Đó là phát hành riêng lẻ và phát hành ra công chúng.
Phát hành riêng lẻ (Private Placement): Là việc công ty phát hành chào bán chứng khoán của mình trong phạm vi một số người nhất định (thông thường là cho các nhà đầu tư có tổ chức có ý định nắm giữ chứng khoán một cách lâu dài) như công ty bảo hiểm, quỹ hưu trí... với những điều kiện hạn chế chứ không phát hành rộng rãi ra công chúng.
Các ngân hàng đầu tư cũng có thể tham gia vào việc phát hành riêng lẻ với tư cách nhà phân phối để hưởng phí phát hành. Đa số các đợt phát hành trái phiếu đều thực hiện dưới hình thức phát hành riêng lẻ, việc phát hành cổ phiếu thường - cổ phiếu phổ thông ít khi được thực hiện dưới hình thức này.
Phát hành chứng khoán ra công chúng: là việc phát hành trong đó chứng khoán có thể chuyển nhượng được bán rộng rãi ra công chúng cho một số lượng lớn người đầu tư nhất định (trong đó phải dành một tỷ lệ cho các nhà đầu tư nhỏ) và khối lượng phát hành phải đạt một mức nhất định.
Ý nghĩa của việc phân biệt giữa phát hành riêng lẻ và phát hành ra công chúng
Việc phân biệt phát hành riêng lẻ và phát hành ra công chúng là để xác định những người phát hành rộng rãi ra công chúng phải là những công ty có chất lượng cao, hoạt động sản xuất kinh doanh tốt, nhằm bảo vệ cho công chúng đầu tư nói chung, nhất là những nhà đầu tư nhỏ thiếu hiểu biết. Đồng thời, đây cũng là điều kiện để xây dựng một thị trường chứng khoán an toàn, công khai và có hiệu quả.
Việc phát hành chứng khoán riêng lẻ thông thường chịu sự điều chỉnh của Luật Công ty. Chứng khoán phát hành dưới hình thức này không phải là đối tượng được niêm yết và giao dịch trên thị trường chứng khoán sơ cấp.

P/E bao nhiêu là vừa?





Vào những ngày cuối năm 2006, Giám đốc Trung tâm Giao dịch Chứng khoán TP.HCM nhận xét: “Chỉ số P/E bình quân của các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam hiện đang là 38,18 lần. So sánh với mức trung bình của các thị trường khác, P/E chỉ dao động từ 10-17 lần”.
Sau tuyên bố này, giá cổ phiếu giảm mạnh. 
Vậy chỉ số P/E là gì, bao nhiêu là vừa?
P/E (Price/Earnings Ratio) là hệ số giữa thị giá một cổ phiếu trên thu nhập của nó. Thông thường người ta dùng thu nhập của cổ phiếu trong bốn quí trước đó để tính. Ví dụ P/E của Vinamilk đầu tuần trước là 33,41; của FPT là 62,82, của REE là 27,43...
Ý nghĩa đầu tiên của chỉ số này là biểu hiện mức giá nhà đầu tư sẵn sàng bỏ ra cho một đồng thu được từ cổ phiếu đó. Một P/E 30 có nghĩa nhà đầu tư chịu bỏ ra 30 đồng để nhận được 1 đồng từ cổ phiếu này. Tuy nhiên, P/E thường phản ánh kỳ vọng của thị trường về sự tăng trưởng của cổ phiếu hơn là kết quả làm ăn đã qua.
Người ta so sánh P/E của các công ty cùng ngành; nếu chỉ số P/E của một công ty cao hơn mức bình quân, có nghĩa thị trường kỳ vọng công ty này sẽ ăn nên làm ra trong thời gian tới. Công ty có chỉ số P/E cao chắc chắn phải có lợi nhuận tương lai cao như kỳ vọng, nếu không thị trường sẽ tự điều chỉnh, giá cổ phiếu giảm cho đúng với thực tế.

Chỉ số P/E cao và thấp




Một người tham gia thị TTCK luôn được dạy rằng thứ quan trọng bậc nhất để xem xét đánh giá một cổ phiếu là chỉ số P/E, xem xét chỉ số P/E cao hay thấp để quyết định mua, bán một mã cổ phiếu nào đó.
Tựu chung các hướng dẫn sơ lược đó đều giống nhau là nên tập trung vào các cổ phiếu có chỉ số P/E thấp và không nên đầu tư vào các cổ phiếu có chỉ số P/E quá cao.
P/E cũng là chỉ số được các nhà phân tích sử dụng trong nhiều năm liền để định giá cổ phiếu. Tuy nhiên, trên TTCK có rất nhiều mã cổ phiếu có chỉ số P/E rất cao nhưng vẫn tiếp tục tăng giá, rất nhiều cổ phiếu có P/E thấp nhưng giá vẫn không thể tăng lên được trong một thời gian rất dài, vậy hướng dẫn này có tính khả thi đến đâu trong việc giúp chúng ta tìm kiếm lợi nhuận?
Tất nhiên trên thị trường khi một cổ phiếu được bán với giá gấp 30-40 lần lợi tức (P/E cỡ 30 đến 40) thì chắc chắn phải có lý do riêng và do thị trường tự quyết định, vì vào thời điểm nào cũng vậy, mọi cổ phiếu đều được mua bán với giá gần với giá trị thực của chúng. Thế nên, nếu chỉ nhìn con số tuyệt đối P/E của một mã cổ phiếu thấy quá cao, có thể bạn đã mất cơ hội dự bữa tiệc ăn mừng sự tăng giá phi mã của PVD từ 120 (P/E là 140) lên 310, của FPT từ 400 (P/E là 73) lên 670 ...

Chủ Nhật, 11 tháng 3, 2012

Thị trường và nhà đầu cơ: Thử mà không có tôi...


Thị trường và nhà đầu cơ: Thử mà không có tôi...  
Sự nhộn nhịp của thị trường chứng khoán Việt Nam năm 2006 đã giúp nhận dạng rõ hơn về vai trò của đầu cơ trong thị trường này. 
 Sự biến động khá kịch tính của chỉ số VN-Index trong năm 2006 (và giữa các năm trước đấy) phần nào nói lên điều đó. Gọi là hàn thử biểu mà trồi sụt kiểu này thì khó hiểu. Thị trường như cô gái đẹp mà chảnh. Hễ nghiêm thì cô làm nư, còn thoải mái cô lung tung. Lý lẽ học thuật đôi khi vô ích...
Điều này lại hấp dẫn nhiều người và họ đang nhào vô. Tuy nhiên, dù đã đứng bên trong hay còn ngoài cửa, ta cũng không nên quên đây là thị trường chứ không phải người đẹp. Thị trường nghiệt ngã với thắng-thua-nóng-lạnh ấy rất cần sự hiểu biết thực thụ. Thật may, cùng với nỗ lực đưa thị trường tiến đến thị trường, sự quan tâm của người đầu tư và giới doanh nghiệp ngày càng sâu và bài bản hơn.

Có lẽ do vậy, trong các dịp trao đổi tại lớp, nhiều sếp - học viên đã hỏi tôi “ở đó có hay không đầu cơ?”. Và đây chính là câu chuyện...

Đầu cơ chứ còn gì nữa! Có điều, phải hiểu đầu cơ thế nào cho phải lẽ thôi. Trước tiên, cần biết người ta bày ra thị trường chứng khoán (thị trường chứng khoán), cụ thể là thị trường thứ cấp, là để mời mấy ông bà chủ (cổ đông) đến đó chơi. Cách thu xếp này loại trừ khả năng đòi rút vốn khỏi doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp trường vốn và yên chuyện làm ăn.

Khi các vị chủ đã đi chỗ khác chơi và đã chịu chơi, họ mặc nhiên biến khoản đầu tư của mình thành khoản đầu cơ. Cổ phiếu cứ thế nổi trôi... Người sở hữu có khi quên mất cái gốc cổ đông của mình, họ quan tâm nhiều hơn đến tư cách khách hàng.

Thật vậy, về mặt chuyên nghiệp, người làm ăn trên thị trường chứng khoán liên hệ chủ yếu với các công ty chứng khoán, để mua bán (kinh doanh) thứ hàng hóa gọi là chứng khoán, chứ ít ai nghĩ mình góp vốn vào doanh nghiệp. Tất nhiên không thể nói không có đầu tư (mua giữ dài hạn) ở thị trường thứ cấp, nhưng người làm ăn tại đây đặt kỳ vọng vào chênh lệch giá (đầu cơ) hơn là tạo ra giá trị tăng lên (đầu tư).

Theo nguyên lý, càng nhiều người tham gia đầu cơ thì thị trường càng lạc quan, điều này hóa giải cái lo kẹt tiền, kéo tiếp người chơi đến thị trường chứng khoán. Đầu cơ vậy là cần chứ đâu có xấu. Nhưng để có sự thấu hiểu, và xa hơn để thấy hết lợi ích của đầu cơ, ta sẽ tiếp cận vấn đề theo lý giải kinh tế và thị trường.

Trước tiên, cần biết trong thị trường chứng khoán không có khái niệm cấm đầu cơ. Tuy vậy, không riêng tại Việt Nam mà hầu như ở đâu trên thế giới xưa nay người ta vẫn cứ kiếm chuyện với đầu cơ. Cả nơi đẻ ra lý thuyết và phát triển hoạt động đầu cơ (là Anh và Mỹ) cũng vậy.

Đầu cơ không chỉ bị nghĩ xấu chung chung theo nghĩa dân gian, mà còn được chẻ từng miếng nhỏ để phân biệt với đầu tư, lấy đầu cơ làm cái phông phản diện để tôn anh đầu tư lên. Việc này không ngừng gây tranh cãi, làm tốn nhiều giấy mực.

10 sai lầm nhà đầu tư nhỏ dễ mắc

10 sai lầm nhà đầu tư nhỏ dễ mắc


Ra quyết định theo đám đông, quá tự tin, lạm dụng giao dịch qua mạng là ba trong số những sai lầm có thể khiến nhà đầu tư nhỏ mất tiền oan.
Với những nhà đầu tư chứng khoán nhỏ thì kẻ thù lớn nhất chính là bản thân họ. Đó là kết luận của Terry Odean, giáo sư Đại học California, Mỹ. Odean đưa ra một số bài học về tài chính hành vi – một bộ môn bao gồm thần kinh học, tâm lý học và kinh tế học. Tài chính hành vi sẽ giúp nhà đầu tư tránh những bản năng tồi tệ nhất của chính họ.

Theo bài viết của Odean trên tạp chí Forbes, các nhà đầu tư nhỏ lẻ hay mắc phải những sai lầm phổ biến dưới đây.

Quá tự tin
Tự tin thái quá vào khả năng phán đoán của bản thân là "căn bệnh" mà nhiều nhà đầu tư nhỏ, đặc biệt là nam giới, mắc phải. Sau khi theo dõi 67.000 tài khoản đầu tư, Odean nhận thấy những người đàn ông chưa kết hôn thường mắc hội chứng tự tin quá mức. Hội chứng này khiến số lần giao dịch của họ nhiều hơn 67% so với phụ nữ độc thân, nhưng mức lợi nhuận trung bình trong năm của họ lại thấp hơn.


Giao dịch quá nhiều
Sau khi theo dõi mọi giao dịch tại Sở Giao dịch Chứng khoán Đài Loan trong 4 năm, Odean nhận thấy các nhà đầu tư mất tổng cộng 32 tỷ USD vì trả hoa hồng cho nhân viên môi giới, nộp thuế và dự đoán sai thời điểm thích hợp để giao dịch. Đương nhiên, số lượng giao dịch càng nhiều thì phí môi giới và tiền nộp thuế càng tăng.

Cận cảnh "lỗ hổng"kế toán trong phát hành trái phiếu chuyển đổi

Thứ tư, ngày 09 tháng mười một năm 2011

Cận cảnh "lỗ hổng"kế toán trong phát hành trái phiếu chuyển đổi

Sau khi ĐTCK số ra ngày 26/10/2011 phát hành, có đăng bài "Trái phiếu chuyển đổi: "Lỗ hổng" kế toán và sai lệch trên BCTC" của Th.s Hà Thị Tường Vy, Phó trưởng ban Quản lý hành nghề kế toán, Hội Kế toán và Kiểm toán Việt Nam, ĐTCK tiếp tục nhận được bài viết của tác giả Quang Phương, trao đổi rõ hơn về vấn đề này.
Quang Phương
N
gày nay, trái phiếu chuyển đổi (TPCĐ) đã trở thành công cụ tài chính khá quen thuộc trên TTCK Việt Nam. Tuy nhiên, hẳn rất ít nhà đầu tư (NĐT) còn nhớ trong lĩnh vực ngân hàng, công cụ này lần đầu tiên được Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) sử dụng qua đợt phát hành TPCĐ gây chấn động giới đầu tư vào tháng 12/2005. Mặc dù vậy, rất nhiều ý kiến trong giới tài chính không thừa nhận sự kiện trên của Vietcombank là đợt phát hành TPCĐ đúng nghĩa. Đơn giản bởi 1.365 tỷ đồng TP Vietcombank thu được tại thời điểm này chưa xác định tỷ lệ chuyển đổi sang cổ phiếu (CP) và không xác định được thời gian chuyển đổi (do Vietcombank lúc này chưa IPO). Bởi vậy, giới ngân hàng vẫn coi đợt phát hành TPCĐ của Ngân hàng Thương mại cổ phần Sài Gòn (SCB) vào ngày 1/11/2006 là đợt phát hành TPCĐ chính thức  và đầu tiên, khi TPCĐ của SCB có đủ các yếu tố như: mệnh giá TP, lãi suất, kỳ hạn, tỷ lệ chuyển đổi sang CP phổ thông.
Như vậy, "thâm niên" sử dụng công cụ TPCĐ của các tổ chức tài chính lớn tại Việt Nam mới khoảng 5 - 6 năm. Vì đây là một công cụ tài chính rất mới đối với Việt Nam nên trong hệ thống chuẩn mực kế toán Việt Nam (chủ yếu được ban hành từ năm 2001 - 2005, trên cơ sở tuân thủ chuẩn mực kế toán quốc tế, nhưng phù hợp với điều kiện phát triển của nền kinh tế Việt Nam) chưa có chuẩn mực kế toán tương đương. Do vậy, các DN khi phát hành TPCĐ chưa có đủ căn cứ pháp lý về kế toán để ghi nhận công cụ tài chính phức hợp (bao gồm cả công cụ nợ và công cụ vốn) này, từ đó, xảy ra tình trạng ghi nhận toàn bộ khoản thu được từ đợt phát hành vào khoản mục "Nợ phải trả" như bà Hà Thị Tường Vy đã phản ánh.

Trái phiếu chuyển đổi: “Lỗ hổng” kế toán và sai lệch trên BCTC

Thứ tư, ngày 09 tháng mười một năm 2011


Trong những năm gần đây, nhiều công ty đại chúng trên TTCK Việt Nam đã lựa chọn phương thức phát hành trái phiếu chuyển đổi (TPCĐ) để huy động vốn. Ở nước ta, đây được coi là công cụ tài chính mới, đem lại nhiều lợi ích cho DN phát hành. Không chỉ góp phần giảm chi phí tài chính trong bối cảnh lãi suất ngân hàng cao, việc phát hành và chuyển đổi thành công TPCĐ còn giúp nhiều công ty đại chung tăng nhanh vốn chủ sở hữu. Tuy nhiên, từ thời điểm DN phát hành TPCĐ đến thời điểm trái phiếu được chuyển thành cổ phiếu phổ thông, việc hạnh toán công cụ tài chính này trên báo cáo tài chính của doanh nghiệp lại chưa được quy định rõ ràng.
Th.s Hà Thị Tường Vy
Phó trưởng ban Quản lý hành nghề kế toán
Hội kế toán và Kiểm toán viên Việt Nam
Trước hết TPCĐ là một loại công cụ tài chính phức hợp, gồm một phần là công cụ nợ và một phần là công cụ vốn. Nó có thể chuyển đổi thành cổ phiếu phổ thông của doanh nghiệp theo tỷ lệ chuyển đổi và khuôn khổ thời gian xác định ngay tại thời điểm phát hành.
Theo chuẩn mực kế toán quốc tế (IAS), sau khi phát hành TPCĐ, trên báo cáo tài chính của DN phát hành phải phản ánh tách bạch được giá trị nợ phải trả và vốn chủ sở hữu từ đợt phát hành TPCĐ. Phần nợ phải trả sẽ được ghi nhận ban đầu theo giá trị hợp lý của khoản nợ phải trả. Phần chênh lệch giữa số tiền thu được khi phát hành TPCĐ và giá trị hợp lý của khoản nợ phải trả sẽ được phản ánh trong phần vốn của chủ sở hữu. Trong hệ thống chính sách về kế toán Việt Nam cho đến nay chưa có văn bản nào hướng dẫn, quy định cho giao dịch này.  Bởi vậy, các DN phát hành TPCĐ, khi phát hành xong đều ghi nhận toàn bộ giá trị phát hành vào nợ phải trả. Chỉ khi nào giao dịch chuyển đổi thực sự thành cổ phiếu phổ thông, DN mới ghi nhận giá trị phát hành vào vốn chủ sở hữu. Như vậy, vô hình chung, DN đang làm sai, vô tình cung cấp cho người đọc báo cáo tài chính các thông tin không chính xác! Minh chứng là tại các đợt phát hành TPCĐ của Ngân hàng TMCP Á Châu (ACB) và Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín (Sacombank) những năm qua, cả hai ngân hàng trên đều ghi nhận công cụ này trên báo cáo tài chính theo đúng số tiền thu được khi phát hành, mà không tách biệt được giá trị phần nợ phải trả và phần vốn chủ sở hữu của công cụ này.
PTT
Lãi
Gốc
Giá trị hiện tại (chiết khấu 9%)
Năm thứ 1
9.000
8.256
Năm thứ 2
9.000
7.575
Năm thú 3
9.000
100.000
84.171
Cộng
27.000
100.000
100.002
Việc ghi nhận sai phần nợ phải trả và phần vốn chủ sở hữu có thể minh họa bằng ví dụ sau: Giả sử DN phát hành 100.000 TPCĐ với mệnh giá là 1 triệu đông/ trái phiếu, thời hạn phát hành là 3 năm. Trả lãi mỗi năm một lần vào cuối năm. Lãi suất 9%/ năm, bằng lãi suất trên thị trường, giá phát hành là 1,2 triệu đồng/ trái phiếu. Tổng số tiền thu được của đợt phát hành TPCĐ là 120.000 triệu đồng. Nếu tuân thủ chuẩn mực kế toán quốc tế (IAS), DN phải ghi nhận số nợ phải trả là 100.002 triệu đồng và vốn chủ sở hữu là 19.998 triệu đồng (phần chênh lệch giữa giá phát hành và giá trị hợp lý của khoản nợ). Do không có hướng dẫn nên khi TPCĐ chưa tới hạn chuyển sang cổ phiếu phổ thông, DN vẫn trình bày trên báo cáo tài chính là 120.000 triệu đồng thuộc nợ phải trả.