Thứ Bảy, 10 tháng 3, 2012

Các nhân tố khiến giá cổ phiếu biến động



Một thực tế gần như đã trở thành chân lý là giá cổ phiếu luôn biến động. Nhưng không có cách nào dễ dàng để hiểu được chúng vận động như thế nào và vì sao, cũng như không có quy tắc nào có thể được sử dụng để có được lợi nhuận mau chóng và chắc chắn từ sự biến động ấy.
 Ở một vài phương diện, chúng ta có thể dễ dàng nói được cái gì ảnh hưởng tới giá cổ phiếu hơn là nói cái gì thực sự ảnh hưởng vào chúng. Khi nào thì giá cổ phiếu biến động, biến động theo chiều hướng nào, trong bao lâu? Đó là câu hỏi mà không chỉ các nhà đầu tư chứng khoán muốn tìm lời giải đáp.

Trong nhiều năm dài, có một thuyết cơ bản, chính thống và quy ước được dùng để giải thích sự vận động của giá cổ phiếu. Đó là thuyết quy ước về giá cổ phiếu (Conventinal Theory of Stock Prices). Thuyết này cho rằng: Nguyên nhân cơ bản của sự vận động giá cả là sự dự đoán lợi nhuận doanh nghiệp. Lợi nhuận của doanh nghiệp là nhân tố trực tiếp quan trọng nhất trong việc quyết định giá cổ phiếu. Bởi giá cổ phiếu chính là giá trị hiện tại (present value) của tất cả lợi tức cổ phần trong tương lai. Và lợi tức cổ phần chỉ có thể đến từ lợi nhuận doanh nghiệp. Do đó, khi lợi nhuận doanh nghiệp thay đổi, giá cổ phiếu sẽ thay đổi.

Thứ Sáu, 9 tháng 3, 2012

Phân tích kĩ thuật : MACD

Nguyên tắc mở giao dịch :

Xuất hiện tín hiệu Phân kì và MACD cắt chéo



Nguyên tắc đóng giao dịch :


Chốt lời khi 2 line MACD hội tụ hoặc theo tỷ lệ lời: lỗ = 1,5 :1
Dừng lỗ 20-30 pip khi phá vỡ đỉnh/ đáy tạm thời

Ví dụ:

Trường hợp Phân kì thuận Regular ( ĐẢO CHIỀU )

SELL


BUY

Phân tích kỹ thuật : Breakout

Phân tích kỹ thuật : Breakout



Breakout là hiện tượng tăng/ giảm độ ngột trong thời gian ngắn có thể dịch chuyển hàng trăm pip và dư sức phá vỡ bất cứ cản kỹ thuật. Các phương pháp dự báo Breakout phổ biến sau :


# 1 - Mô hình tam giác

Momentum yếu dần và tích lũy đến chóp mô hình tam giác, Breakout bắt đầu với nến tăng/ giảm mạnh thủng Trendline cản. Khi vào lệnh theo xu hướng thì Stoploss đặt trên đỉnh tạm thời khi giá quay đầu Breakout phá cản.


Ví dụ:

Phân tích kỹ thuật : Bollinger Bands


Phân tích kỹ thuật : Bollinger Bands



Tóm tắt:


Được Code bởi John Bollinger, Bollinger Bands là chỉ số đo biến động của thị trường và cung cấp rất nhiều thông tin hữu ích để kết hợp với các công cụ khác, chức năng cơ bản
- Xác định Xu hướng chủ đạo
- Dự báo Xu hướng tiếp tục ,tạm dừng hoặc đảo chiều
- Giai đoạn củng cố
- Thời điểm biến động mạnh Breakout
- Tìm điểm đáy/ đỉnh tạm thời

Cấu tạo:
Gồm 3 dãy: Dãy MA 20 là đường trung bình 20 làm mượt xu hướng, 2 dãy còn lại đóng vai trò hỗ trợ/ Kháng cự. Ở giai đoạn củng cố, không có xu hướng rõ ràng, 85% giá di chuyển trong phạm vi Bands, Khi thị trường vào Trending, giá dao động bám sát dãy trên/ dưới Bands



Khi xu hướng tăng, Giá di chuyển trên dãy Upper Band và ngược lại giảm dưới MA 20 và các Bands đều tạo áp lực thì xu hướng Giảm chiếm ưu thế. Nếu không bắt kịp sóng ngay từ đầu , có thể tận dụng các đợt điều chỉnh về dãy Band giữa MA 20 để vào lệnh theo xu hướng.

Đồ thị hình nến Nhật Bản - Stars (5.2)

THE MORNING VÀ EVENING DOJI STARS

Khi một doji có một khoảng trống ở trên một thân nến trong một thị trư­ờng lên, hoặc một khoảng trống ở dư­ới một thân nến trong một thị tr­ường xuống, doji đó đư­ợc gọi là một ngôi sao doji.
Hình 5.2 cho thấy những ngôi sao doji. Những ngôi sao doji là một cảnh báo mạnh rằng xu hư­ớng trư­ớc có khả năng thay đổi. Phiên sau phiên doji cần phải xác nhận sự đảo chiều xu hư­ớng. Do đó một ngôi sao doji trong một xu hướng tăng theo sau là một thân nến đen, dài mà kết thúc vào trong thân nến trắng xác nhận một sự đảo chiều ở đỉnh. Một mẫu hình như­ vậy đư­ợc gọi là the evening doji star (xem hình 5.13). Mẫu hình the evening doji star là một dạng đặc biệt của mẫu hình the evening star thông thường. Mẫu hình the evening star thông thường có một thân nến nhỏ, được gọi là ngôi sao (thân nến thứ hai), nhưng mẫu hình the evening doji star có một doji nh­ư một ngôi sao. Mẫu hình the evening doji star thì quan trọng hơn bởi vì nó chứa đựng một doji.
Một ngôi sao doji trong một xu hướng tăng thư­ờng là dấu hiệu của một đỉnh sắp xảy ra. Cần chú ý rằng nếu phiên sau ngôi sao doji là một thân nến trắng với khoảng trống cao hơn, tín hiệu giảm giá của ngôi sao doji đ­ược phủ nhận.
Trong một xu hướng giảm giá, nếu có một thân nến đen, theo sau là một ngôi sao doji, sự xác nhận một sự đảo chiều ở đáy xuất hiện nếu phiên tiếp theo là một thân nến trắng mạnh mẽ, kết thúc vào trong thân nến đen. Mẫu hình gồm ba thân nến đó được gọi là the morning doji star (xem hình 5.14). Mẫu hình này có thể là một đáy rất có ý nghĩa. Nếu trong một xu thế giảm sút, một thân nến đen với những khoảng trống d­ưới ngôi sao doji, tiềm năng tăng giá của ngôi sao doji bị mất hiệu lực. Điều này cho thấy tầm quan trọng để đợi sự xác nhận trong những phiên tiếp theo ngôi sao doji.

Nếu có một một ngôi sao doji có khoảng trống tăng giá với thân nến trắng (mà những bóng nến không chạm nhau) theo sau là một khoảng trống giảm giá với thân nến đen (những bóng nến cũng không chạm nhau), ngôi sao đ­ược xem xét như là một tín hiệu của sự đảo chiều ở đỉnh chính. Mẫu hình này được gọi là đứa trẻ bị bỏ rơi ở đỉnh (abandoned baby top), xem hình 5.15. Mẫu hình này rất hiếm khi xảy ra.

Điều tương tự cũng đúng, nhưng ngược lại, cho một đáy. Đặc biệt, nếu có một ngôi sao doji mà có một chỗ trống trư­ớc và sau nó (những bóng nến không chạm nhau) nó cần phải được xem là một đáy chính. Mẫu hình này được gọi là đứa trẻ bị bỏ rơi ở đáy (abandoned baby bottom), xem hình 5.16. Mẫu hình này cũng rất hiếm khi xảy ra.
Mẫu hình abandoned baby (đứa trẻ bị bỏ rơi) như­ một đỉnh/đáy hòn đảo phư­ơng Tây (island top/bottom), ở đó hòn đảo là một doji.
Hình 5.17 minh họa một ngôi sao doji đầu tháng sáu chỉ ra xu hướng giảm giá chấm dứt. Nó vẫn được gọi là một ngôi sao mặc dù bóng của ngôi sao doji có sự gối lên thân nến đen của ngày trư­ớc đó. Khi thân nến trắng xuất hiện sau ngôi sao, là sự xác nhận thời kỳ sụt giảm đã qua. Thân nến đen trư­ớc và thân nến trắng sau ngôi sao doji làm cho ba thân nến này tạo thành mẫu hình morning doji star.

Trên thân nến ngôi sao doji trên hình 5.18, giá đã rớt xuống 85$. Đây là một vùng hỗ trợ từ đầu tháng bảy. Thực tế rằng mức giá thấp mới không thể giữ được là tín hiệu tăng giá cần đ­ược xem xét. Thêm vào mẫu hình the morning doji star này, bạn có hai lý do để nghi ngờ một đáy.

Đồ thị hình nến Nhật Bản - Stars (5.1)

NHỮNG NGÔI SAO


Một nhóm của những mẫu hình đảo chiều là những mẫu hình có những ngôi sao. Một ngôi sao là một thân nến nhỏ có khoảng trống với thân nến lớn đi trước nó (hình 5.1). Cũng được coi là ngôi sao miễn là phần thân của nó không chồng lên thân nến trước. Màu sắc của ngôi sao không phải là vấn đề quan trọng.

Những ngôi sao có thể xuất hiện ở những đỉnh hoặc những đáy (đôi khi một ngôi sao trong thời gian một xu thế giảm được gọi là hạt mưa rơi (a rain drop). Nếu ngôi sao là một doji thay vì một thân nến nhỏ, thì nó được gọi là một ngôi sao doji (hình 5.2).
Ngôi sao, đặc biệt là ngôi sao doji, là một cảnh báo xu hướng trư­ớc có thể kết thúc. Thân nhỏ của ngôi sao diễn tả một sự bế tắc trong cuộc chiến giữa những người đầu cơ giá lên và đầu cơ giá xuống.
Trong một xu hướng tăng giá, những người đầu cơ giá lên đang tích lũy. Với sự hiện ra của một ngôi sao sau một thân nến trắng dài trong xu hướng tăng, đó là một tín hiệu của sự thay đổi từ những ng­ười mua đang điều khiển đến một sự bế tắc giữa bên mua và bên bán. Sự bế tắc này cũng có thể đã xuất hiện bởi sự giảm bớt trong lực mua hoặc sự tăng lên trong lực bán. Ngôi sao như nói với chúng ta sức mạnh của xu hướng tăng giá trư­ớc đã đư­ợc xua tan và thị trư­ờng dễ bị tấn công bởi một sự đi xuống.
Điều tương tự cũng đúng, nhưng ngược lại, đối với một ngôi sao trong một xu hướng giảm. Nghĩa là, nếu một ngôi sao đi sau một cây nến đen dài trong một xu thế giảm sút, nó phản ánh một sự thay đổi trong môi tr­ường kinh doanh. Ví dụ, trong một xu hướng giảm giá, những người đầu cơ giá xuống nắm quyền điều khiển, như­ng một sự thay đổi đư­ợc nhìn thấy trong sự xuất hiện của ngôi sao, nó báo hiệu một môi trường trong đó những người đầu cơ giá lên và đầu cơ giá xuống đã trở nên cân bằng hơn. Sức mạnh xuống giá đã bị triệt tiêu. Lúc đó không phải là một kịch bản thuận lợi cho một sự tiếp tục giảm giá của thị trư­ờng.
Ngôi sao là một phần của bốn mẫu hình đảo chiều, bao gồm: evening star, morning star, doji star và shooting star.
Trong các mẫu hình này, phần thân của ngôi sao có thể màu trắng hoặc đen.

THE MORNING STAR


Mẫu hình the morning star (hình 5.3) là một mẫu hình đảo chiều ở đáy. Tên của nó xuất phát từ việc, như­ ngôi sao buổi sáng báo trước bình minh, nó báo tr­ước giá cả sẽ cao hơn. Nó gồm có một thân nến cao, đen theo sau là một thân nến nhỏ có khoảng trống giảm giá (hai thân nến này có một mẫu ngôi sao cơ bản). Thân nến thứ ba có thân màu trắng, mà vận động của giá vào bên trong thân nến đen phiên đầu tiên. Mẫu hình này là một tín hiệu cho thấy những người đầu cơ giá lên đã nắm quyền điều khiển. Tôi sẽ phân tích mẫu hình ba cây nến này bằng cách tìm hiểu từng thành phần của nó để hiểu yếu tố căn bản đằng sau phát biểu trên.

Thị trư­ờng trong một xu hướng giảm giá khi chúng ta nhìn thấy một thân nến đen. Vào thời gian này những người đầu cơ giá xuống nắm quyền điều khiển. Rồi một thân nến nhỏ xuất hiện. Điều này có nghĩa rằng những ng­ười bán đang mất khả năng để điều khiển thị trường xuống thấp hơn. Phiên tiếp theo, thân nến trắng mạnh mẽ chứng minh rằng những người đầu cơ giá lên đã nắm quyền. Một mẫu hình the morning star lý tưởng có một khoảng trống trư­ớc và sau thân nến giữa (ngôi sao). Khoảng trống thứ hai này thì hiếm có, nh­ưng sự thiếu nó không có vẻ làm yếu đi sức mạnh của mẫu hình này.
Hình 5.4 chỉ ra một mẫu hình morning star tăng giá nảy sinh trong thời gian từ 19 đến 21 tháng m­ười hai. Sự tăng giá bắt đầu với mẫu hình này kết thúc bởi mẫu hình dark-cloud cover vào 26, 27 tháng mư­ời hai.
Hình 5.5 thể hiện rằng tháng m­ười mức giá thấp được tạo ra qua một ngôi sao (thân nến nhỏ tuần đầu tháng mư­ời). Tuần sau ngôi sao này, thị trư­ờng là một thân nến trắng mạnh mẽ. Thân nến trắng này hoàn thành mẫu hình the morning star. Thân nến đen sau thân nến trắng này hình thành một mẫu hình dark-cloud cover. Thị trường tạm thời giảm giá. Dẫu sao, mẫu hình the morning star cũng trở thành một đáy chính.
Hình 5.6 cho thấy một biến thể của mẫu hình the morning star, trong đó có hơn một ngôi sao (trong trư­ờng hợp này có ba "ngôi sao"). Lưu ý rằng thân nến nhỏ thứ ba (ngôi sao thứ ba) là một mẫu hình the hammer, nó và thân nến nhỏ trước nó cũng tạo nên một mẫu hình engulfing tăng giá.

Đồ thị hình nến Nhật Bản - Dark cloud cover và Piercing pattern (4)

DARK-CLOUD COVER

Mẫu đảo chiều tiếp theo là dark-cloud cover (xem hình 4.24). Nó là một mẫu hình hai cây nến báo hiệu một sự đảo chiều ở đỉnh sau một xu hướng tăng giá, hoặc đôi khi ở đỉnh của một dải hẹp.


Cây nến đầu tiên của mẫu hình hai cây nến này là một thân nến trắng mạnh mẽ. Cây nến thứ hai có giá mở cao hơn giá cao của phiên trước đó (có nghĩa cao hơn đỉnh của bóng trên). Tuy nhiên, vào khoảng cuối phiên thứ hai, thị trư­ờng đóng phiên gần mức thấp của phiên và bên trong thân nến trắng của phiên trư­ớc.

Mức độ xâm nhập vào phần thân cây nến trắng càng lớn thì khả năng một đỉnh sẽ xuất hiện càng cao. Nhiều nhà kỹ thuật Nhật Bản yêu cầu sự xâm nhập lớn hơn 50% mức đóng phiên giảm vào phiên tăng trước đó. Nếu cây nến đen không kết thúc thấp hơn nửa thân nến trắng, tốt hơn là đợi thêm sự xác nhận của mẫu hình giảm giá dark-cloud cover.


Lý do căn bản đằng sau mẫu hình giảm giá này được giải thích dễ dàng. Thị trường trong một xu hướng tăng. Một cây nến trắng tăng giá mạnh mẽ, tiếp theo là một khoảng trống tăng giá ở đầu phiên kế tiếp. Đến đây, những người đầu cơ giá lên nắm hoàn toàn quyền điều khiển thị trường. Nhưng sau đó không thấy có sự tiếp tục tăng giá. Thực tế là thị trư­ờng kết thúc ở/gần mức giá thấp của phiên và bên trong phần thân nến trắng của phiên trước. Trong bối cảnh như vậy, những người mua sẽ suy nghĩ lại về vị trí của họ. Những người đang đợi để bán ngắn hạn bây giờ có một điểm chuẩn để đặt một lệnh dừng - tại mức giá cao mới của phiên thứ hai của mẫu hình dark-cloud cover.

Sau đây là một số yếu tố làm tăng thêm độ tin cậy của mẫu hình dark-cloud cover:

1. Mức độ xâm nhập của giá đóng thân cây nến đen vào thân cây nến trắng trước đó càng lớn, cơ hội cho một đỉnh càng cao. Thân nến đen của mẫu hình dark-cloud cover chỉ xâm nhập một phần thân nến trắng. Nếu thân nến đen bao trùm toàn bộ thân nến trắng của phiên trước thì một mẫu hình engulfing giảm giá xuất hiện. Vì vậy, một mẫu hình engulfing giảm giá có ý nghĩa đảo chiều ở đỉnh hơn. Nếu một thân nến trắng, dài kết thúc trên mức giá cao của mẫu hình dark-cloud cover, hoặc engulfing giảm giá thì nó có thể báo trước sự vận động khác.


2. Trong một xu hướng tăng giá kéo dài, nếu có một cây nến trắng mạnh mẽ - mở ở giá thấp (không có bóng dưới), đóng ở giá cao (không có bóng trên), và phiên sau là một thân nến đen dài, mở ở giá cao và đóng ở giá thấp, sau đó sẽ xuất hiện phiên giảm mạnh, không có bóng trên và bóng dưới.

3. Nếu thân nến thứ hai (thân nến đen) của mẫu hình dark-cloud cover có giá mở ở trên một mức kháng cự mạnh và sau đó rớt, nó chứng minh rằng những người đầu cơ giá lên không thể điều khiển được thị trường.

4. Nếu vào đầu phiên thứ hai có một khối lượng giao dịch rất lớn, tình trạng quá mua có thể đã xuất hiện. Ví dụ, khối lượng giao dịch rất lớn tại một mức giá mở cao mới có thể có nghĩa rằng nhiều ngư­ời mua mới đã quyết định nhảy lên tàu. Rồi sau đó thị trư­ờng bán tháo. Có lẽ sẽ không quá lâu trư­ớc khi đám đông những người mua mới hiểu ra rằng con tàu mà họ nhảy lên là tàu Titanic.

Đối với những người giao dịch thị trường tương lai, khối lượng giao dịch cực lớn cũng là một tín hiệu cảnh báo khác.

Hình 4.25 thể hiện sự khác nhau giữa mẫu hình dark-cloud cover và engulfing. Hai thân nến trong tháng sáu năm 1989 tạo thành một dark-cloud cover. Một thân nến trắng dài, tiếp theo là một thân nến đen, dài. Thân nến đen mở ở một mức cao mới, sau đó đóng ở gần mức thấp của nó và bên trong thân nến trắng trước đó. Thị tr­ường trái phiếu đã có dấu hiệu giảm nhiệt sau khi có sự đảo chiều ở đỉnh này xuất hiện. Tuy nhiên sự giảm sút mạnh chỉ đến vài tuần đó, khi mẫu hình engulfing được cụ thể hóa. Chúng ta có thể thấy thân nến đen của dark-cloud cover bao trùm một phần thân nến trắng trư­ớc đó. Thân nến đen của mẫu hình engulfing giảm giá bao bọc toàn bộ thân nến trắng trước nó.


Trong hình 4.26 có ba mẫu hình dark-cloud cover được nhận diện. Những tín hiệu giảm giá khác nhau được xác nhận qua mỗi mẫu hình này. Chúng ta hãy xem xét từng mẫu hình riêng lẻ.


Dark-cloud cover 1. Đây là một biến thể của mẫu hình dark-cloud cover lý tưởng. Trong dark-cloud cover này, thân nến đen của ngày thứ hai mở ở mức giá cao của ngày hôm trước, thay vì ở trên nó. Đó chỉ là một tín hiệu cảnh báo, nhưng cần được nhìn nhận là như là một yếu tố phủ định. Mẫu hình dark-cloud cover này cũng thể hiện một nỗ lực bất thành của những người đầu cơ giá lên trong việc vượt qua mức kháng cự ở mức giá cao giữa tháng hai.

Dark-cloud cover 2. Không kể mẫu hình này, đã có lý do khác cho việc cần phải thận trọng ở mức 21$. Một tiên đề kỹ thuật là: một mức hỗ trợ sau khi bị phá bỏ có thể chuyển đổi thành mức kháng cự mới. Điều đó đã xảy ra tại 21$. Ghi nhớ rằng mức hỗ trợ cũ 21$ đã bị xuyên thủng một lần vào ngày 9 tháng ba, được chuyển thành mức kháng cự. Những nỗ lực bị phá sản thể hiện qua mẫu hình này trong hai ngày đầu tiên của tháng tư­ minh họa cho mức kháng cự này. (Chư­ơng 11 sẽ đề cập đến khái niệm có thể hoán đổi vai trò của mức hỗ trợ và kháng cự).

Dark-cloud cover 3. Mẫu hình này cũng thể hiện đã có một sự thất bại tại một ngưỡng kháng cự được thiết lập ở những mức giá cao cuối tháng tư.

Đó là những ví dụ thể hiện mẫu hình dark-cloud cover trùng với những mức kháng cự. Khái niệm này thể hiện là những khu vực có sự hội tụ của nhiều chỉ báo kỹ thuật thì càng quan trọng. Đó là tiêu điểm chính của phần 2 của cuốn sách - Sự kết hợp của kỹ thuật hình nến với những công cụ kỹ thuật khác.


Hình 4.27 chỉ ra rằng trong thời gian đầu tháng ba, dark-cloud cover 1 là sự tạm dừng của một xu hướng tăng. Sự điều chỉnh xảy ra suốt tuần sau đó. Hai dark-cloud cover nữa được hình thành trong tháng tư. Dark-cloud cover 2 ngụ ý rằng sự tăng giá mạnh trong hai ngày có lẽ đã kết thúc. Dark-cloud cover 3, giữa tháng tư, thì đặc biệt giảm giá mạnh.

Trong hình 4.28, chúng ta nhìn thấy giá có xu hư­ớng tăng bắt đầu từ ngày 10/2 đến khi đột ngột dừng vào giữa tháng hai với sự xuất hiện của dark-cloud cover.



Đồ thị hình nến Nhật Bản - Engulfing (3)

ENGULFING

Hammer và hanging man là những mẫu hình một cây nến riêng biệt. Chúng có thể gửi những tín hiệu quan trọng về “sức khỏe” của thị trư­ờng. Tuy nhiên, đa số các tín hiệu từ các cây nến đều dựa vào sự kết hợp của nhiều cây nến riêng lẻ. Mẫu hình engulfing là mẫu đầu tiên trong số các mẫu hình dựa trên sự kết hợp của nhiều cây nến. Mẫu hình engulfing là tín hiệu đảo chiều với hai thân nến đối lập về màu sắc.
Hình 4.18 thể hiện một mẫu hình engulfing tăng giá. Thị trường đang trong một xu hướng giảm giá, xuất hiện một thân nến trắng tăng giá áp đảo thân nến đen trước đó. Điều này cho thấy rằng lực mua đã lấn át lực bán. Hình 4.19 minh họa một mẫu hình engulfing giảm giá. Thị trường đang trong một xu hướng tăng giá, thân nến trắng bị lấn át bởi thân nến đen, đó là tín hiệu của một sự đảo chiều ở đỉnh. Điều này cho thấy bên bán đã giành quyền điều khiển thị trường.
Có ba tiêu chuẩn đối với mẫu hình englfing:

1. Thị tr­ường phải trong một xu hướng rõ ràng, tăng giá hoặc giảm giá, thậm chí có thể là xu hướng ngắn hạn.

2. Hai cây nến tạo thành mẫu hình engulfing. Thân nến thứ hai phải áp đảo thân nến trước đó (nó không cần phải lấn át những bóng nến).

3. Thân nến thứ hai của mẫu hình cần phải có màu đối lập với thân nến đầu tiên. (ngoại lệ của quy tắc này là nếu thân nến đầu tiên của mẫu hình nhỏ, như­ vậy nó gần như là­ một doji (hoặc là một doji). Do đó, sau một xu thế giảm giá kéo dài, một thân nến trắng nhỏ xíu bị áp đảo bởi một thân nến trắng rất lớn có thể là một sự đảo chiều ở đáy. Trong một xu hướng tăng giá, một thân nến đen bị lấn át bởi một thân nến đen rất lớn có thể là một mẫu đảo chiều giảm giá).

Giống mẫu hình engulfing của Nhật là reversal day của phư­ơng Tây. Reversal day của phư­ơng tây xuất hiện khi, trong thời gian xu hướng tăng (hoặc giảm giá), một mức cao (hoặc thấp) mới đư­ợc tạo ra với giá đóng thấp hoặc cao hơn giá đóng của ngày trư­ớc đó. Bạn sẽ khám phá ra là mẫu hình engulfing có thể đ­ưa ra tín hiệu đảo chiều không sẵn có với reversal day của phư­ơng Tây. Điều này cho phép bạn chiếm ưu thế hơn những người sử dụng reversal day truyền thống như­ một tín hiệu đảo chiều. Điều này đư­ợc trình bày qua các hình 4.21, 4.22, và 4.23.

Hình 4.20 cho thấy cho những tuần bắt đầu từ 15/5 và 22/5 hình thành một mẫu hình engulfing tăng giá. Trong hai tuần cuối tháng bảy, một mẫu hình engulfing giảm giá xuất hiện. Mẫu hình engulfing tăng giá tháng chín là sự phục hồi từ đáy của quá trình sell off trư­ớc đó.

Đồ thị hình nến Nhật Bản - Hammer và Hanging Man (2)

NHỮNG MẪU HÌNH ĐẢO CHIỀU
"Bóng tối nằm ngay phía trư­ớc”

Những nhà phân tích kỹ thuật chờ đợi những manh mối giá cả có thể báo động cho họ một sự thay đổi trong tâm lý thị trường và xu hướng. Những mẫu hình đảo chiều là kỹ thuật tìm ra manh mối đó. Những thuật ngữ chỉ mẫu hình đảo chiều phương Tây như hai đỉnh, hai đáy, đầu vai, đỉnh và đáy độc lập, v.v…
Cho đến nay, thuật ngữ “mẫu hình đảo chiều” có phần được hiểu và dùng sai. Nghe thuật ngữ đó có thể nghĩ rằng một xu hướng cũ kết thúc một cách đột ngột và sau đó có sự đảo chiều sang xu hướng mới. Điều này không phảI lúc nào cũng diễn ra. Sự đảo chiều của xu hướng thường xuất hiện từ từ, trong một khoảng thời gian, như sự thay đổi cơ bản về tâm lý.
Một tín hiệu đảo chiều của xu hướng hàm ý rằng xu hướng trước đó rất có khả năng thay đổi, nhưng không nhất thiết là ngược lại. Điều này rất quan trọng để hiểu được vấn đề. So sánh một xu hướng tăng với một chiếc ô tô đang hướng về phía trước với vận tốc khoảng 50 km/h. Khi đèn phanh bật sáng, chiếc xe chạy chậm lại. Cái đèn phanh là một chỉ báo đảo chiều chỉ ra rằng xu hướng trước đó (ở đây, chiếc xe đang chạy) gần như kết thúc. Bây giờ chiếc xe gần như không chuyển động, người lái xe sẽ quay xe lại, đứng yên hoặc quyết định chạy tiếp? Chúng ta không thể biết nếu không có thêm manh mối.
Hình 4.1 đến 4.3 là một vài ví dụ về những gì có thể xảy ra sau khi một tín hiệu đảo chiều ở đỉnh xuất hiện. Xu hướng tăng giá trước đó, có thể thay đổi thành thời kỳ đi ngang của giá. Sau đó một xu hướng mới, ngược với xu hướng cũ có thể bắt đầu - xem hình 4.1. Hình 4.2 thể hiện xu hướng tăng giá cũ có thể hồi phục lại như thế nào. Hình 4.3 minh họa cho xu hướng tăng giá có thể bất ngờ đảo chiều thành ra xu hướng giảm giá.
Hãy nhớ rằng khi người ta nói “mẫu hình đảo chiều”, nó chỉ có nghĩa rằng xu hướng trước đó dường như thay đổi nhưng không nhất thiết ngược lại.
Nhận ra sự xuất hiện của những mẫu hình đảo chiều có thể là một kỹ năng đáng giá. Để thành công trong kinh doanh đòi hỏi bạn phải nắm được xu hướng và cả những gì có thể sắp diễn ra. Những chỉ báo đảo chiều là cách mà thị trường cung cấp tín hiệu cho bạn, giống như tín hiệu giao thông, ví dụ như “Hãy thận trọng - Xu hướng của quá trình đã thay đổi”. Nói cách khác, tâm lý của thị trường đã thay đổi. Bạn nên điều chỉnh giao dịch tương ứng với diễn biến mới của thị trường. Có rất nhiều cách để tham gia và thoát ra khỏi thị trường với các chỉ báo. Chúng ta sẽ bàn luận về chúng từ đầu đến cuối cuốn sách này.
Một nguyên tắc cơ bản để tham gia thị trường tại một vị trí mới (dựa trên một tín hiệu đảo chiều) chỉ khi tín hiệu đó theo chiều hướng của xu hướng chính. Ví dụ, trong một thị trường tăng giá, một mẫu hình đảo chiều ở đỉnh xuất hiện. Tín hiệu giảm giá này không cho phép một hành động bán ra. Điều này là bởi vì xu hướng chính vẫn là tăng. Dù sao, nó cũng là tín hiệu dừng mua. Nếu đó là một xu hướng giảm đang thịnh hành, sự hình thành của mẫu hình đảo chiều ở đỉnh tương tự có thể được sử dụng để bán ra.
Bây giờ, chúng ta sẽ đi vào tìm hiểu những mẫu hình đầu tiên trong số những mẫu hình đảo chiều.

Đồ thị hình nến Nhật Bản - Cấu tạo (1)

CẤU TẠO BIỂU ĐỒ HÌNH NẾN
"Không có mái chèo, bạn không thể qua sông với một chiếc xuồng"

Một sự so sánh trực quan về sự khác nhau của biểu đồ dạng then chắn và biểu đồ hình nến thì dễ minh họa. Hình 3.1 là biểu đồ dạng then chắn phư­ơng Tây quen thuộc. Hình 3.2 là biểu đồ hình nến với cùng thông tin về giá như trong biểu đồ then chắn.

VẼ NHỮNG CÂY NẾN

Để vẽ biểu đồ then chắn hàng ngày cần có giá mở, cao, thấp, và đóng. Đường thẳng đứng trên biểu đồ then chắn thể hiện giá cao và thấp của phiên. Đường nằm ngang bên trái đường thẳng đứng là giá mở phiên, bên phải đường thẳng đứng là giá đóng phiên.

Hình 3.3 cho thấy cách xây dựng một biểu đồ then chắn và một biểu đồ hình nến với cùng một dữ liệu. Mặc dù những biểu đồ then chắn và hình nến hàng ngày sử dụng cùng dữ liệu, dễ nhận thấy chúng đư­ợc vẽ khác nhau. Chỗ dày nhất của cây nến đư­ợc gọi là thân nến. Nó mô tả phạm vi giữa giá mở và đóng của phiên đó. Khi thân nến màu đen (tô kín) nó có nghĩa là đóng phiên thấp hơn mở. Nếu thân nến màu trắng (rỗng), thì nó có nghĩa rằng đóng phiên cao hơn mở (màu sắc của biểu đồ hình nến có thể thay đổi bởi người sử dụng).
Những đường mỏng ở trên và ở dư­ới thân nến là những bóng nến. Những bóng nến này đại diện cho những cực trị giá của phiên. Bóng ở trên thân nến đư­ợc gọi là bóng trên và bóng ở dư­ới thân nến đư­ợc gọi là bóng dưới. Do đó, đỉnh của bóng trên là giá cao nhất phiên và đáy của bóng dưới là giá thấp nhất phiên. Đối với người Nhật, thân nến là sự chuyển động giá quan trọng. Những bóng nến thường đư­ợc xem xét như­ những dao động giá bên ngoài.
Những hình từ 3.4 đến 3.7 thể hiện vài cây nến hay gặp. Hình 3.4 là một cây nến đen dài, tương ứng với một phiên giảm giá khi thị trường mở cửa gần với giá cao và đóng cửa gần với giá thấp. Hình 3.5 cho thấy sự đối lập của một thân nến đen dài, và do đó tương ứng là một phiên tăng giá. Giá cả có một phạm vi rộng và thị trư­ờng mở gần giá thấp và đóng gần giá cao của phiên. Hình 3.6 cho thấy những cây nến có thân nhỏ và chúng diễn tả cuộc chiến giữa bên bán và bên mua. Hình 3.7 thể hiện những cây nến không có thân, thay vào đó, chúng là những đường nằm ngang. Đó là những ví dụ của những cây nến được gọi là doji.

Vì sao phải học phân tích kĩ thuật

TẦM QUAN TRỌNG CỦA PHÂN TÍCH KỸ THUẬT 

Tầm quan trọng của phân tích kỹ thuật gồm năm khía cạnh dưới đây:
Đầu tiên, trong khi sự phân tích cơ bản có thể cung cấp quy mô cung cầu, những tỷ lệ giá/lợi nhuận, những thống kê kinh tế học, v.v…, không có thành phần tâm lý học kéo theo trong sự phân tích đó. Vậy mà nhiều thị trường, đôi khi bị ảnh hưởng, thậm chí nặng nề, bởi sự đa cảm. John Manyard Keynes phát biểu, "Không có gì bất hạnh như­ một chính sách đầu t­ư hợp lý trong một thế giới vô lý". Phân tích kỹ thuật cung cấp cơ chế duy nhất để đo "sự vô lý" hiện diện trong mọi thị trường. 

Thứ hai, những kỹ thuật cũng là một thành phần quan trọng trong việc khép mình vào kỷ luật giao dịch. Kỷ luật trong giao dịch giúp những thương gia làm dịu bớt những căng thẳng. Nếu bạn nghi ngờ điều này, hãy giao dịch trên giấy (tập mua bán bằng cách viết ra giấy). Rồi thử buôn bán với những quĩ của chính mình. Bạn sẽ sớm khám phá sự căng thẳng, nghi ngờ, băn khoăn trong cách mà bạn mua bán và nhìn nhận thị tr­ường. Những kỹ thuật cũng mang lại tính khách quan trong việc đưa ra các quyết định. Chúng cung cấp một cơ chế để thiết lập những điểm vào/ra, để đặt những tỷ lệ rủi ro/lợi nhuận, hoặc những mức dừng/thoát. Sử dụng chúng sẽ giúp bạn phát triển kỹ năng quản lý rủi ro và lợi nhuận trong giao dịch. 

Giới thiệu đồ thị hình nến Nhật Bản - Japanese Candlestick Charting Techniques - Steve Nison



Đồ thị hình nến Nhật Bản - Japanese Candlestick Charting Techniques - Steve Nison (1)
LI GII THIU
Bạn có muốn học một hệ thống kỹ thuật đó được chắt lọc qua hàng trăm năm sử dụng, nhưng gần như ít được phổ biến? Một hệ thống khá linh hoạt, có thể kết hợp với bất kỳ công cụ kỹ thuật nào của phương Tây? Một hệ thống mang đến cho bạn sự thích thú khi sử dụng như là sức mạnh của nó? Nếu muốn, BIỂU ĐỒ KỸ THUẬT HÌNH NẾN NHẬT BẢN là thứ bạn cần. Bạn có thể thấy được giá trị của nó trong việc cung cấp cho bạn nền tảng của phân tích kỹ thuật.
Sử dụng biểu đồ hình nến Nhật Bản sẽ giúp bạn hoàn thiện khả năng phân tích thị trường. Tập trung chính vào thị trường Mỹ, nhưng những cụng cụ và kỹ thuật có thể áp dụng cho bất kỳ thị trường nào.
Biểu đồ hình nến được dùng cho việc theo dõi, suy đoán và bảo vệ trong hoạt động đầu tư. Nó cũng có thể được dùng cho hàng hóa giao sau, hợp đồng quyền chọn hay bất cứ đâu phân tích kỹ thuật được áp dụng.
Không cần phải băn khoăn, lo lắng nếu bạn chưa hề nhìn thấy biểu đồ hình nến. Những kiến thức này là mới với bạn. Thực ra, nó cũng là mới đối với nhiều người Mỹ và châu Âu.
Nếu bạn là một người phân tích kỹ thuật dày dạn, bạn sẽ khám phá ra cách kết hợp biểu đồ hình nến với công cụ kỹ thuật khác của bạn để có thể tạo ra một sức mạnh tổng hợp của kỹ thuật. Những phần kết hợp biểu đồ hình nến với công cụ kỹ thuật phương Tây sẽ làm cho bạn thích thú.
Nếu bạn là một người phân tích kỹ thuật nghiệp dư, bạn sẽ thấy biểu đồ hình nến hiệu quả như thế nào khi nó là phương pháp phân tích biểu đồ độc lập.

Thứ Ba, 6 tháng 3, 2012

PHÂN TÍCH KĨ THUẬT_PHẦN 7

Đường hỗ trợ và kháng cự là một trong những công cơ bản được các tay buôn chứng khoán sử dụng để phân tích và xác định vùng biến động của giá cổ phiếu trên thị trường. Có thể ở Việt Nam, khái niệm đường hỗ trợ, đường kháng cự còn rất lạ lẫm đối với nhiều nhà đầu tư song khái niệm này được nhắc tới và sử dụng rất phổ biến trong phân tích kĩ thuật, thậm chí còn được coi là kim chỉ nam, là sách gối đầu giường của nhiều tay chơi cổ phiếu. Bài viết này nhằm cung cấp các kiến thức cơ bản nhất về mức hỗ trợ, mức kháng cự cũng như cách xác định các mức giá có khả năng xảy ra trong tương lai.

Một trong những tiên đề nổi tiếng, có tính kinh điển trong phân tích kĩ thuật đó là "giá cả của cổ phiếu chịu sự tác động mạnh mẽ của mức hỗ trợ và mức kháng cự". Hỗ trợ là thuật ngữ dùng để chỉ các tác động giữ cho giá cổ phiếu luôn cao hơn một mức nào đó, còn kháng cự ngược lại, là thuật ngữ được sử dụng để chỉ các tác động khiến cho giá cổ phiếu luôn thấp hơn một mức nhất định nào đó. Người ta đã nghiệm ra rằng lịch sử luôn lặp lại, nếu trong quá khứ các mức giá đã từng đóng vai trò là giá kháng cự,thì chúng có xu hướng sẽ lặp lại vai trò đó trong tương lai. Việc biểu diễn được các đường hỗ trợ hay kháng cự trên đồ thị cổ phiếu sẽ giúp nhà đầu tư xác định được tầm quan trọng của chúng trong quá khứ cũng như tiên liệu được các biến động trong tương lai. Khi nhận thấy thị trường đang giao dịch với mức giá gần với và hướng về các mức trên, ta có thể đưa ra một số dự báo hợp lý về giá cả cổ phiếu trong thời gian tới, từ đó có được các quyết định đầu tư cho riêng mình.

Vậy thế nào là hỗ trợ, thế nào là kháng cự và hình thù của chúng trên các đồ thị cổ phiếu ra sao? Để giải quyết được câu hỏi này, hãy cùng quan sát một đồ thị có biểu diễn các đường kháng cự và đường hỗ trợ tại các mức giá hết sức rõ ràng và dễ nhận biết. Sử dụng các thông tin rút ra từ bảng này ta có thể biết được liệu các mức kháng cự hay hỗ trợ này có lặp lại không khi giá cổ phiếu có xu hướng chạm tới các mức giá đó. Tuy nhiên, trước khi đi sâu khám phá những bí ẩn đằng sau các biểu đồ, hãy cùng tìm hiểu một số thuật ngữ và các nguyên nhân dẫn tới sự hình thành của các đường này.

Bất kì ai thường xuyên theo dõi các kênh thông tin tài chính, đọc các tạp chí đầu tư như Financial Times, vào các website chuyên ngành đầu tư chứng khoán của các thị trường lớn đều có thể nghe được và đọc được các lời nhận xét của các chuyên gia tài chính như, đại loại như là "Tôi cho rằng mức hỗ trợ của Dow là 7300" hay "Dow chắc chắn sẽ có mức kháng cự là 8100" Vậy thì bản chất tài chính của kháng cự hay hỗ trợ là gì, và tại sao người ta lại nhắc đến nó nhiều như vậy. Robert Edwards và John Magee trong tác phẩm kinh điển của họ có tựa đề "phân tích kĩ thuật xu thế biến động cổ phiếu" (Technical analysis of stock trend) đã định nghĩa như sau:
Hỗ trợ là việc mua, có thể trên thực tế hoặc tiềm năng, một khối lượng lớn cổ phiếu trong một giai đoạn nhất định nhằm ngăn chặn không cho giá của chúng giảm thêm nữa. Kháng cự, ngược với hỗ trợ, là việc bán một lượng lớn cổ phiếu nhằm đáp ứng các lệnh mua, khiến cho mức giá không tăng thêm nữa.  Xét về quan hệ cung cầu thì hỗ trợ là mức giá mà tại đó cầu lớn hơn cung, còn kháng cự là mức giá tại đó cầu nhỏ hơn cung.

S-R1.jpg

Hãy cùng quan sát bảng 1 để thấy rõ hơn. Đây là biểu đồ chứng khoán của công ty Rubbermaid từ tháng 6 năm 1997 đến tháng 9 năm 1998. Đồ thị thể hiện ba lần giá cổ phiếu lên cao hơn mức 27.5 điểm ( tại A ,B ,C), sau đó lại đảo chiều và giảm giá. Kế đó, sau khi vượt qua mức 27.5 điểm vào tháng 1 năm 1998 giá cổ phiếu lại tụt xuống (điểm D ,E ,F) trước khi tăng lên tới mức 35 điểm. Một đường thẳng được kẻ sao cho càng gần với cả sáu điểm này càng tốt. Trong bảng này, ta thấy mức giá đóng vai trò kháng cự tại điểm A-C, sau đó đảo chiều và đóng vai trò hỗ trợ tại điểm D-E.

Để giải thích được hành vi của thị trường, chúng ta cần phân tích rõ đồ thị này hơn chút nữa. Sau khi sụt giảm mạnh từ mức 30 điểm vào giữa tháng 7 năm 1997, giá cổ phiếu sau đó đã tăng lên mức 27.5 (điểm A) vào tháng 8, lại sụt giảm, rồi tăng lên mức 27.25 điểm vào tháng 8, sau đó lại sụt giảm. Chu kì này lại tiếp diễn một lần nữa vào tháng 1 năm 1998, sau đó lại được đẩy từ mức 27.5 điểm lên mức 29.5 điểm vào tháng 2.

Giả định rằng trước khi diễn ra sự sụt giá vào giữa tháng 7 năm 1997, các nhà đầu tư mua cổ phiếu ở mức giá dưới 30 điểm đã kiếm được một khoản lợi nhuận sau khi bán lại các cổ phiếu này cho các nhà đầu tư mới ở mức giá 30 điểm. Nhưng ngay sau đó, nhiều người trong số các cổ đông mới này đã đau khổ khi phải chứng kiến tiền đầu tư của mình bỗng nhiên giảm đi mất 15% chỉ sau một đêm ngắn ngủi (giá giảm xuống mức 25.5 điểm) và đương nhiên ai cũng mong ngóng ngày giá tăng để giảm bớt khoản lỗ.

Mặt khác, các nhà đầu tư đã lỡ cơ hội kiếm lời từ việc tăng giá ngay trước đó (từ thấp hơn 30 lên 30 điểm) thì lại coi đây là một cơ hội tốt để mua vào, đơn giản vì mới chỉ hai ngày trước đó, mức giá còn ngất ngưởng 30 điểm.  Chính vì tâm lý này nên giá cổ phiếu đã tăng lên mức 27.5 (điểm A), và các cổ đông mua cổ phiếu ở mức giá 30 cũng nhẹ nhõm hơn một chút vì mức lỗ của họ chỉ còn 2.5 điểm thay vì 4.5 điểm  như trước đây. Nhiều người chấp nhận mức lỗ này, và không muốn kéo dài tình trạng lo lắng cho túi tiền của mình, họ quyết định bán cổ phiếu ra, khiến cho giá sụt xuống. Chu trình này lặp lại (điểm B và C) cho đến khi một bộ phận lớn các nhà đầu tư không chấp nhận mức lỗ 2.5 điểm và vẫn quyết định nắm giữ cổ phiếu, khiến cho mức giá tiếp tục tăng và vượt qua mức 27.5  vào tháng 2 năm 1998, tiếp tục tăng lên mức 29.5 điểm.
Tại mức giá này, nhiều nhà đầu tư cảm thấy hài lòng với quyết định nắm giữ cổ phiếu của mình, chấp nhận mức lỗ 0.5 điểm, lo sợ vì mức giá duy trì yếu trong thời gian dài, họ quyết định liên lạc với người môi giới của mình để bán cổ phiếu, khiến cho giá lại giảm xuống mức 27.5 (điểm D). Hiện tượng này tiếp tục xảy ra thêm hai lần nữa (điểm E, F) cho đến khi những nhà đầu tư chấp nhận chịu mức lỗ nhỏ đã ra khỏi thị trường, lúc này giá cả lại được đẩy lên mức 30 điểm vào tháng 5 năm 1998.

Quá trình trên không chỉ xảy ra tại mức giá này mà nó xảy ra ngay tại mỗi mức giá cổ phiếu được giao dịch. Mặc dù điều này có vẻ quá đơn giản, nhưng đó là một trong những kiểu ra quyết định của các nhà đầu tư giúp hình thành nên mức hỗ trợ và mức kháng cự. Một vài nhân tố quan trọng hơn cả sẽ có ảnh hưởng lớn đến biểu hiện của giá cả, tuy nhiên nếu không tính tới các nhân tố  này, các mức hỗ trợ và kháng cự này có thể có những tác động rõ rệt đến hình dạng của bảng biểu chứng khoán thường ngày. Nhưng quan trọng hơn cả, bằng cách kết hợp kiến thức về mức hỗ trợ, mức kháng cự cùng với các công cụ phân tích cơ bản và phân tích kĩ thuật khác, chúng ta có thể có những sự so sánh, dự đoán xu hướng biến động của giá cả, chớp thời cơ làm giàu, hơn là bị động gánh chịu và sửng sốt trước những biến đổi bất ngờ của nó.

PHÂN TÍCH KĨ THUẬT_PHẦN 6

Double bottom (Mô hình hai đáy)

Mô hình hai đáy hình thành khi giá tạo thành hai điểm đáy liên tiếp trên cùng một đồ thị. Mô hình này chỉ hoàn thiện khi giá tăng vượt qua điểm bắt đầu hình thành đáy thứ hai (tức là vượt qua đường Neckline sau khi đã chạm đến đáy thứ hai). Mô hình hai đáy là thời kỳ chuyển đổi xu thế giảm giá thành xu thế tăng giá, nó mang tính đảo chiều. Có điều là mô hình này tương đối dễ nhận ra nên cũng rất dễ nhầm do đó nhà đầu tư nên cẩn thận khi quyết định tham gia trong thời kỳ này. Thực tế thống kê cho thấy nếu nhà đầu tư nóng vội tham gia ngay từ đầu thì xác xuất thất bại là 64% còn nếu họ cố gắng đợi đến khi xuất hiện "breakout" (đảo chiều) thật sự thì xác xuất thất bại chỉ còn 3%.

a7.JPG

Để có thể nhận diện chính xác mô hình, nhà đầu tư nên chú ý đến một số vấn đề: đáy thứ hai không nên xuống vượt quá đáy thứ nhất; khoảng thời gian giữa hai đáy cũng là một dấu hiệu quan trọng-thời gian càng dài thì độ chính xác càng cao-ít nhất phải là một tháng và có thể kéo dài nhiều tháng.
 Double top (Mô hình hai đỉnh)
 a8.JPG
Mô hình hai đỉnh hình thành khi đường biểu diễn sự biến động của giá chứng khoán hình thành hai đỉnh trên biểu đồ. Mô hình này chỉ hoàn thiện khi giá chứng khoán rơi xuống dưới mức sàn đáy (điểm dưới cùng của đáy) của toàn mô  hình. Mô hình hai dỉnh là mô hình thể hiện sự đảo ngược của xu hướng tăng giá chứng khoán – nó đánh dấu quá trình chuẩn bị cho xu hướng đi xuống của xu hướng tăng giá trong hiện tại (nó báo hiệu cho một thị trường giảm giá). Vì đây là mô hình rất hay thường gặp và rất dễ nhận ra nên khi nhận định về thị trường chúng ta nên xem xét một cách cẩn then. Bolkowski ước tính mức thất bại của mô hình này là 65% nếu nhà đầu tư đợi đến mức đột biến giá (Breakout) mới tiến hành giao dịch thì mức rủi ro giảm xuống còn 17%.


Falling wedge (Mô hình cái nêm hướng xuống):
 a9.JPG
Mô hình Falling wedge là một hình mẫu kỹ thuật dạng bullish (chỉ báo thị trường tăng giá), mô hình bắt đầu thì biên khoảng cách giữa hai đường xu thế rộng sau đó độ rộng giảm dần khi giá chứng khoán giảm. Sự biến động của giá hình thành một hình chóp nón hướng xuống dưới do các đỉnh và đáy dần hội tụ. Hình mẫu kỹ thuật Falling wedge trượt hướng xuống phía dưới và có dấu hiệu bullish (chỉ báo thị trường tăng giá), tuy nhiên dấu hiệu bullish (chỉ báo thị trường tăng giá) này sẽ không thể được nhận ra cho đến khi có "breakout" (đảo chiều xu thế   ) khỏi đường kháng cự. Khi mô hình mang tính continuation (tiếp tục xu thế của thị trường), thì Falling wedge vẫn sẽ hướng xuống dưới và xu hướng này ngược với xu thế của thị trường hiện tại. Khi nó mang tính reversal (đảo ngược với xu thế của thị trường), thì Falling wedge hướng trượt xuống dưới cùng với xu thế của thị trường. Nhưng cho dù Falling wedge thuộc loại nào thì nó vẫn là hình mẫu kỹ thuật báo hiệu sự tăng giá!

PHÂN TÍCH KĨ THUẬT_PHẦN 5



Các hình mẫu kỹ thuật (Chart Patterns)

Hình mẫu kĩ thuật hay còn gọi là các mô hình giá hoặc hình mẫu giá là các “bức tranh” hay các mô hình biến động nhất định của giá xuất hiện trên biều đồ giá thị trường. Trong Phân tích kỹ thuật, các hình mẫu kỹ thuật có vai trò vô cùng quan trọng bởi mục tiêu sau cùng của các nhà phân tích là tìm ra được sự lặp lại của một dạng biến động nhất định của giá đã xuất hiện trong quá khứ ở hiện tại và tận dụng những kinh nghiệm có được trong quá khứ về mô hình này cũng như những kết quả đã thống kê được để có một phương án tốt nhất cho quyết định đầu tư trong hiện tại.

Hình mẫu kỹ thuật dù được áp dụng khá rộng rãi với nhièu đối tượng chứ không chỉ riêng chứng khoán chẳng hạn như áp dụng trong các giao dịch ngoại hối, trong phân tích các thị trường Futures của các hàng hoá thông  thường,… và còn áp dụng trong cả dài hạn lẫn ngắn hạn, tuy nhiên ta có thể phân chia một cách tổng thể nhất thành hai loại là mô hình mang tính cung cố hay duy trì xu thế hiện tại của thị trường và mô hình làm đảo chiều xu thế hiện.

Dưới đây ta cũng chỉ nghiên cứu được những mô hình chủ yếu và quan trọng nhất trong phân tích kỹ thuật còn rất nhiều dạng khác đều là biến thể của các dạng cơ bản này.
Ascending triangle - Tam giác hướng lên
Mô hình tam giác hướng lên nhìn chung được coi là một dạng mô hình trung gian mang tính củng cố hay báo hiệu sự tiếp tục xu thế hiện tại của thị trường. Tuy nhiên đôi khi nó cũng mang tính đảo ngược. Thường thì mô hình này cần ít hơn ba tháng để hoàn thiện và khi xuất hiện thường kèm theo sự gia tăng của khối lượng giao dịch. Với mô hình này ta có thể nhận thấy sự hội tụ của hai đường kháng cự và hỗ trợ thể hiện bằng sự thu hẹp khoảng cách giữa các đỉnh và các đáy của thị trường, kéo dài hai đường kháng cự và hỗ trợ chúng sẽ cắt nhau ở đỉnh tam giác ở phía phải đồ thị. Đường kháng cự nằm ngang và đường hỗ trợ hướng lên cho thấy các mức giá cao có xu thế giữ nguyên còn các mức giá thấp nhất lại có xu thế tăng dần lên, điều này cũng có nghĩa là người mua có động cơ mạnh hơn người bán.
pattern1.JPG
“Breakout” (break-out có nghĩa là điểm xuất hiện sự đảo chiều của xu thế thị trường, ở đây sẽ dùng nguyên văn tiếng Anh) sẽ xuất hiện ở khoảng giữa điểm 2/3 và 3/4 chiều ngang của mô hình (tính từ điểm bắt đầu mô hình đến điểm cắt nhau của hai đường kháng cự và hỗ trợ)."Breakout" phá vỡ đường kháng cự sẽ chứng tỏ mô hình mang tính củng cố còn nếu phá vỡ đường hỗ trợ sẽ chỉ ra rằng mô hình mang tính đảo chiều. Có một cách để ước lượng mức giá mục tiêu thấp nhất mà sự đột phá ra ngoài mô hình này có thể đạt tới là xác định mức giá của điểm giao nhau dự kiến của hai đường kháng cự và hỗ trợ kéo dài. Tiếp đó ta đo chiều cao của mô hình tam giác tức là khoảng cách (đo theo chiều thẳng đứng) giữa điểm cao nhất của đường kháng cự và điểm thấp nhất của đường hỗ trợ, rồi cộng khoảng này vào mức giá của giao điểm vừa đo ở trên nếu là "breakout" hướng lên và sẽ lấy mức giá của giao điểm trừ đi khoảng này nếu là "breakout" hướng xuống. 
Cup and Handle (mô hình cốc và chuôi):Mô hình cốc và chuôi xuất hiện khi thị trường đang trong xu thế lên giá và nó củng cố xu thế đó của thị trường. Mô hình này gồm hai phần: phần “cốc” và phần cái “chuôi”, mô hình “cốc” kéo dài trong 1 đến 6 tháng còn mô hình chuôi kéo dài trong 1 đến 4 tuần. Phần cốc hình thành sau một đợt tăng giá của thị trường và có dạng đáy vòng xuống. Khi mô hình “cốc” hoàn thành một mô hình khung giao dịch sẽ tiếp tục hình thành ở phía bên phải và tạo nên cái “chuôi” (như hình vẽ).    
pattern2.JPG
Thường thì tính củng cố của mô hình sẽ được đảm bảo hơn nếu xu thế tăng giá ban đầu kéo dài trong vài tháng tức là đảm bảo nó không quá yếu. Cũng cần lưu ý với dạng của mô hình cốc: đáy của nó càng vòng càng tốt và nếu như nó quá nhọn và gần giống với chữ V thì rất dễ chuyển tính chất thành mô hình đảo chiều. Một mô hình cốc hoàn hảo sẽ có hai thành cốc cao ngang nhau, độ sâu của nó hoàn lại khoảng 1/3 hoặc ít hơn mức tăng giá trước đó, tất nhiên điều này ít khi xảy ra. Với thị trường có độ bất ổn lớn (volatile) thì mức hoàn lại có thể trong khoảng 1/3 đến ẵ, them chí có thể đạt đến 2/3.
Mô hình “chuôi” làm cho đợt gia tăng giá ở bên phải “cốc” ngừng lại và biến động nhỏ trong một khung giao dịch và có thể kéo lùi giá lại một chút so với thành “cốc”.Toàn bộ chiều cao của khung thường đạt mức 1/3 chiều cao “cốc”. "Breakout" xuất hiện sẽ phá vỡ mức kháng cự và tiếp tục xu thế tăng giá của thị trường.

PHÂN TÍCH KĨ THUẬT_PHẦN 4

Mức hoàn lại - Khung giao dịch - Hỗ trợ và Kháng cự

Mức hoàn lại.
Trong bất kì một đồ thị nào ta đều thấy sau một giai đoạn giá chuyển động theo xu thế của thị trường thì giá sẽ hoàn lại một chút trước khi quay trở lại chuyển động theo xu thế cũ. Những chuyển động ngược xu thế này thường có độ lớn ở vào những khoản có thể dự đoán được và được gọi là mức hoàn lại. Mức hoàn lại trung bình thường gặp nhất là 50%. Bên cạnh đó còn có các mức hoàn lại thường thấy khác đó là các mức 1/3 và 2/3. Nói cách khác, nếu chia một xu thế giá thành ba phần thì nói mức hoàn lại thấp nhất là 33% và cao nhất là 66% có nghĩa là ở giai đoạn điều chỉnh của xu thế đó giá sẽ hoàn lại ít nhất 1/3 mức tăng (hay giảm) mà nó đạt được trong xu thế trước đó và mức hoàn lại đó không vượt quá 2/3 mức tăng (hay giảm) trước đó đạt được. Nếu mức hoàn lại cao hơn thì khả năng sẽ xảy ra sự đảo chiều thị trường tức là giá sẽ chuyển động theo xu thế đảo ngược xu thế trước mà không quay lại chuyển động theo xu thế đó.
Khung Giao Dịch.
Thị trường có thể ở một trong 3 xu thế là xu thế tăng, xu thế giảm và xu thế dao động ngang. Nhiều người cho rằng thị trường chỉ có thể tăng hoặc giảm, nhưng thực tế có đến 1/3 thời gian giá chuyển động theo một hình mẫu dạng ‘phẳng’ nằm ngang gọi là khung giao dịch. Khung giao dịch là một dải nằm ngang trên đồ thị trong đó bao gồm các dao động của giá trong một giai đoạn dài. Nói chung hầu hết các biến động của thị trường sẽ diễn ra bên trong khung giao dịch. Tuy nhiên khi thị trường có biến động dạng khung giao dịch thì lại rất khó kiếm được lợi nhuận. Khung giao dịch phản ánh thời kỳ mà áp lực cung cầu là tương đối cân bằng và giá duy trì ở mức cân bằng thị trường. Đôi khi người ta còn gọi thời kỳ mà giá biến động theo khung giao dịch là thời kỳ không có xu thế thị trường. Hầu hết các công cụ kinh tế đều được tạo ra để có thể áp dụng vào các thị trường có xu thế tăng hoặc giảm rõ rệt còn khi thị trường ở dang không có xu thế rõ rệt thì các công cụ này nhìn chung hoạt động kém hiệu quả, thậm chí là không thể áp dụng. Đây cũng chính là thời kỳ gây khó chịu nhất cho những người đi theo Phân tích kỹ thuật và gây ra nhiều lỗ nhất. Trong những tình huống ấy nhà đầu tư luôn phải đối mặt với một trong ba quyết định là mua, bán hay đứng ngoài không tham gia vào thị trường và thông thường thì quyết định không tham gia vào thị trường luôn là quyết định sáng suốt nhất.
Thực tế cũng có một số phương pháp có thể áp dụng để kiếm lời khi thị trường xuất hiện dạng khung giao dịch, chẳng hạn như sử dụng các chỉ số dao động thị trường (Oscillators) mà ta sẽ nghiên cứu ở phần sau. Nhìn chung rất khó có thể dự đoán sự xuất hiện trong tương lai của mô hình khung giao dịch. Mô hình này cũng có thể kéo dài trong nhiều tháng, một năm hay nhiều năm. Cũng giống như kênh, khung giao dịch cũng có các đường biên bên trên và bên dưới, đây chính là các đường kháng cự và hỗ trợ của khung (ta sẽ nghiên cứu về kháng cự và hỗ trợ ở phần sau). Những “sự phá vỡ” (break out) ra ngoài khung có thể là các dấu hiệu quan trọng để tiến hành các giao dịch. Tuy nhiên cũng cần lưu ý bởi giá cũng thường dao động vượt ra ngoài khung nhưng chỉ với một lượng nhỏ, sau đó quay trở lại bên trong khung. Đôi khi nguyên nhân của hiện tượng này là do những lệnh dừng mà nhà đầu tư đã đặt và những lệnh này tác động đến những vùng giá nằm ngoài khung. Khi những lệnh này kết thúc thì giá sẽ trở lại dao động bên trong khung giao dịch nếu không có những lý do liên quan đến những yếu tố tài chính cơ bản hay có sự xuất hiện khối lượng giao dịch lớn duy trì sự vượt ra ấy. Nhìn chung nhà đầu tư không nên đi theo ngay những “breakout” mới xuất hiện mà nên chờ thêm một dao động tiếp theo xác nhận “breakout” này cho dù điều này có thể làm chậm lại một chút nhưng sẽ tránh được rất nhiều dấu hiệu sai và tránh được những khoản lỗ.  

PHÂN TÍCH KĨ THUẬT_PHẦN 3

Xu thế, Đường xu thế, Kênh

Xu thếKhái niệm xu thế sẽ được giới thiệu kĩ hơn trong phần Lý thuyết Dow. Xu thế gồm có cả xu thế giá tăng và xu thế giá giảm. Xu thế giá tăng gồm liên tiếp những đỉnh giá cao dần và đáy giá cao dần (đỉnh trước cao hơn đỉnh sau và đáy trước cao hơn đáy sau). Một xu thế giá tăng sẽ được coi là vẫn duy trì cho đến khi xuất hiện một đáy mới thấp hơn đáy trước nó. Ngược lại xu thế giá giảm cũng sẽ được coi là vẫn đang tiếp diễn cho đến khi xuất hiện một đỉnh mới cao hơn đỉnh trước nó.
Đường xu thế
Xu thế giá tăng và xu thế giá giảm cũng được nghiên cứu dưới dạng các đường xu thế. Với xu thế giá tăng ta có đường xu thế giá tăng, đây là đường nối các điểm đáy cao dần lên và đường xu thế giảm là đường nối các đỉnh thấp dần. Đường xu thế có thể kéo dài thậm chí nhiều năm. Qui trình vẽ một đường xu thế khá đơn giản nhưng cũng rất dễ nhầm. Điều căn bản là phải có những dấu hiệu chắc chắn về sự xuất hiện một xu thế giá. Khi muốn vẽ một xu thế giá tăng ta phải có ít nhất hai điểm đáy mà đáy sau cao hơn đáy trước. Tất nhiên điều kiện cần và đủ để có thể vẽ được một đường thẳng là phải có hai điểm, tuy nhiên người ta thường đợi cho đến khi xuất hiện một đáy thứ ba cao hơn hai đáy trước và đường xu thế đi qua cả 3 đáy (một cách tương đối). Điều này có nghĩa là đường xu thế có thể không đi qua đáy thứ ba mà chỉ đi sát, nhìn chung như thế là đạt yêu cầu. Nhưng một đường xu thế đi qua cả đáy bao giờ cũng được coi là một đường xu thế chính xác và có độ tin cậy cao.
a1.JPG

Khi một đường xu thế đã được xác nhận về độ chính xác thì nó sẽ trở nên rất hữu ích bởi tính chính xác ấy đảm bảo chắc chắn hướng chuyển động ổn định của giá. Với xu thế giá tăng, sau mỗi đợt tăng biến động điều chỉnh xuất hiện sẽ kéo giá xuống sát hoặc đến đúng đường xu thế những sẽ không xuống thấp hơn nếu xu thế thị trường vẫn đang ổn định. Đường xu thế lúc này là biên thấp nhất của dao động giá. Tương tự, với thị trường đang có xu thế giá giảm thì đường xu thế sẽ là biên cao nhất cho mọi dao động giá. Như thế, các đường xu thế chính xác của thị trường sẽ là các biên dao động cơ sở để xác định mức giá mua và bán tối đa và tối thiểu hợp lý.
Nếu chuyển động của đồ thị vượt lên đường xu thế giảm hoặc xuống dưới đường xu thế giá tăng thì đây là dấu hiệu, có thể nói là sớm nhất, cho sự thay đổi trong xu thế thị trường.
Kênh   Kênh là khoảng giao động của giá, nếu giá sẽ dao động trong một dải thì dải đó gọi là kênh. Dải dao động đó được xác định bởi hai đường biên là đường xu thế và đường kênh (channel line), hai đường này song song với nhau. Vấn đề là làm sao có thể xác định được hai đường này.
a2.JPG
Sau khi đã xác định được đường xu thế như trên, giả sử với xu thế giá tăng, ta vẽ đường kênh là một đường song song với đường xu thế và đi qua đỉnh giá rõ nhất đầu tiên. Nếu ở lần tăng giá tiếp theo giá tăng đến gần hoặc chạm vào đường kênh rồi lại giảm xuống đến gần đường xu thế thì khả năng có thể tồn tại một kênh dao động của giá. Với xu thế giá giảm việc vẽ và xác định kênh là hoàn toàn tương tự, tất nhiên là theo hướng ngược lại.
a3.JPG
Mỗi lần giá chạm vào hoặc đến gần đường kênh rồi quay trở lại xuống đến đường xu thế là một lần kênh được kiểm tra thành công. Kênh tồn tại càng lâu với càng nhiều lần thử thành công thì vai trò cũng như độ tin cậy của nó càng lớn. Kênh có thể sử dụng cho kiếm lời trong ngắn hạn và thậm chí một số nhà đầu tư táo bạo còn sử dụng đường kênh để tiến hành những giao dịch ngược hướng với xu thế thị trường nhằm tìm kiếm những khoản lợi lớn hơn cho dù giao dịch ngược hướng thị trường có thể là một chiến thuật nguy hiểm và phải trả giá đắt.
Khi chuyển động của giá trên thị trường phá vỡ đường xu thế thì có thể gây ra sự đảo chiều của xu thế thị trường, nhưng nếu đường kênh bị chuyển động của giá phá vỡ (khi giá vượt ra ngoài đường kênh) thì tác động lại hoàn toàn ngược lại: đây là dấu hiệu cho sự gia tăng sức mạnh của xu thế hiện tại, thậm chí một số nhà đầu tư tin tưởng rằng việc giá chuyển động làm mất đi đường kênh sẽ xác nhận cho một xu thế ổn định trong thời gian dài và là cơ hội cho những nhà đầu tư thực hiện những hợp đồng dài hạn.  
Ngược lại, khi giá không lên được đến đường kênh mà quay ngược trở lại quá sớm thì đây lại là dấu hiệu dự báo sớm sự suy giảm của xu thế hiện tại và là dấu hiệu cho thấy có thể chuyển động của giá sẽ phá vỡ đường xu thế.
a4.JPG
Nói chung việc chuyển động của giá không thể đạt đến sát một trong hai đường biên của kênh có thể là một dấu hiệu sớm cho thấy xu thế giá có thể thay đổi và khả năng chuyển động của giá có khả năng sẽ phá vỡ đường biên còn lại của kênh. Với xu thế giá tăng, có thể có hai trường hợp (trong các hình vẽ ở hai trường hợp này ta giả định ban đầu kênh đang có xu thế hướng lên- xu thế tăng giá, hoàn toàn tương tự nếu muốn xem xét đối với xu thế giá giảm).
Nếu chuyển động của giá vượt qua đường kênh một khoảng lớn thì đây là dấu hiệu cho thấy xu thế lên giá đang mạnh lên, thường ta sẽ phải vẽ một đường xu thế mới dốc hơn từ điểm đáy cuối cùng song song với đường kênh mới. Thực tế cho thấy đường xu thế mới này hoạt động tốt hơn đường cũ.
a5.JPG
Nếu giá không đạt được đến đường kênh và chuyển động phá vỡ đường xu thế thì điều này chỉ ra rằng xu thế thị trường đổi ch iều thành xu thế giá giảm. Hai đỉnh mới xuất hiện (đỉnh 5 và 7) sẽ là cơ sở để vẽ đường xu thế giá giảm, tương tự ta sẽ vẽ đường kênh song song đường xu thế và đi qua đáy 4. Chú ý là ở đây có sự đổi vai trò đường xu thế ban đầu trở thành đường kênh và ngược lại. 
a6.JPG
Ngoài ra kênh và các đường kênh còn mang một ý nghĩa khác: Khi giá chuyển động phá vỡ xu thế hiện tại - xuất hiện ‘breakout’ từ kênh hiện tại, giá thường sẽ chuyển động một khoảng bằng với độ rộng của kênh đó.
Như thế, để xác định điểm dừng của chuyển động này ta có thể tính tương đối chính xác bằng cách đo độ rộng của kênh vừa bị phá vỡ và dự kiến điểm dừng từ điểm giá vượt ra ngoài kênh (Tuy nhiên cần luôn luôn lưu ý rằng trong hai đường biên của kênh thì đường xu thế luôn có vai trò quan trọng và đáng tin cậy hơn, đường kênh chỉ là một công cụ kĩ thuật xuất phát từ đường xu thế).

PHÂN TÍCH KĨ THUẬT_PHẦN 2

Các khái niệm và công cụ cơ bản sử dụng trong quá trình Phân tích kỹ thuật.

Các loại biểu đồ. Hiện nay trên Thị trường chứng khoán các chuyên viên phân tích dùng rất nhiều các loại biểu đồ khác nhau để phân tích, trong đó có 3 loại biểu đồ được dùng một cách phổ biến nhất đó là: biểu đồ dạng đường (Line chart), biểu đồ dạng then chắn (Bar chart), biểu đồ dạng ống (Candlestick chart).
Biểu đồ dạng đường (Line chart).Dạng biểu đồ này từ trước tới nay thường được sử dụng trên Thị trường chứng khoán, và cũng là loại biểu đồ được dùng một cách phổ biến nhất trong các ngành khoa học khác dùng để mô phỏng các hiện tượng kinh tế và xã hội…và nó cũng là loại biểu đồ được con người dùng trong thời gian lâu dài nhất. Nhưng hiện nay trên Thị trường chứng khoán do khoa hock kỹ thuật phát triển, diễn biến của Thị trường chứng khoán ngày càng phức tạp cho nên loại biểu đồ này ngày càng ít được sử dụng nhất la trên các Thị trường chứng khoán hiện đại. Hiện nay nó chủ yếu được sử dụng trên các Thị trường chứng khoán mới đi vào hoạt động trong thời gian ngắn, khớp lệnh theo phương pháp khớp lệnh định kỳ theo từng phiên hoặc nhiều lần trong một phiên nhưng mức độ giao dịch chưa thể đạt được như Thị trường chứng khoán dùng phương pháp khớp lệnh liên tục.Ưu điểm của loại biểu đồ này là dễ sử dụng, lý do chính là vì nó được sử dụng trên tất cả các Thị trường chứng khoán trên khắp thế giới từ trước tới nay. Hiện nay loại biểu đồ này ít được sử dụng để phân tích trên các Thị trường chứng khoán hiện đại vì các Thị trường chứng khoán hiện đại ngày nay thường diễn biến khá phức tạp, mức độ dao động trong thời gian ngắn với độ lệch khá cao, nếu dùng loại biểu đồ này để phân tích thì thường mang lại hiệu quả thấp trong phân tích.
Ví dụ về dạng biểu đồ dạng đường (line chart):
 chart11.png
Đồ thị biến động VNIndex
(tính đến ngày 18/01/2007 - bsc.com.vn)
Hiện nay trên các Thị trường chứng khoán hiện đại đang dùng một số loại biểu đồ trong Phân tích kỹ thuật mang lại hiệu quả cao đó là Bar chart và Candlestick chart.
Biểu đồ dạng then chắn (Bar chart)
Ví dụ về dạng biểu đồ dạng then chắn (Bar chart):
 ge2007.png
Cổ phiếu General Electric
Trên các Thị trường chứng khoán hiện đại trên thế giới hiện nay các chuyên viên phân tích thường dùng loại biểu đồ này trong phân tích là chủ yếu lý do chính vì tính ưu việt của nó đó là sự phản ánh rõ nét sự biến động của giá chứng khoán.
Hai kí tự mà dạng biểu đồ này sử dụng đó là:
untitled.JPG

loại biểu đồ này thường được áp dụng để phân tích trên các Thị trường chứng khoán hiện đại khớp lệnh theo hình thức khớp lệnh liên tục, độ dao động của giá chứng khoán trong một phiên giao dịch là tương đối lớn.

PHÂN TÍCH KĨ THUẬT_PHẦN 1

1. Những giả định cơ sở
 Phân tích kỹ thuật là sự nghiên cứu biến động của thị trường, chủ yếu thông qua việc sử dụng các đồ thị nhằm mục đích dự đoán các xu thế biến động của giá trong tương lai.
Thuật ngữ “biến động của thị trường” ám chỉ ba yếu tố biến động chính cung cấp thông tin cho quá trình Phân tích kỹ thuật là giá, khối lượng giao dịch và số lượng hợp đồng chưa tất toán (open interest).
Có 3 giả định làm cơ sở cho việc tiếp cận Phân tích kỹ thuật:
          - Biến động thị trường phản ánh tất cả
          - Giá dịch chuyển theo xu thế chung
          - Lịch sử sẽ tự lặp lại
Biến động thị trường phản ánh tất cả. Đây có thể coi là nền tảng của Phân tích kỹ thuật. Mọi lý thuyết, phân tích khác muốn được chấp nhận thì trước tiên phải hiểu và chấp nhận giả định này. Các nhà Phân tích kỹ thuật cho rằng bất cứ yếu tố nào có khả năng ảnh hưởng đến giá như tâm lý, chính trị hay các yếu tố tài chính của doanh nghiệp, tổ chức. . . đều được phản ánh rõ trong giá thị trường. Do đó có người cho rằng việc nghiên cứu biến động của giá là tất cả những gì ta cần và thực sự không thể phản đối lại ý kiến này.
Trên cơ sở nhận thức chung về việc giá phản ánh những biến động trong cung, cầu. Các nhà Phân tích kỹ thuật chỉ ra rằng khi giá tăng dù vì bất kì lý do gì thì cầu phải vượt cung và thị trường tăng giá. Chúng ta cũng đều biết và đồng ý rằng động lực chính của cung và cầu là những yếu tố kinh tế căn bản, chúng làm hình thành lên Bull Market hay Bear Market, còn đồ thị thì không tự nó làm cho thị trường dịch chuyển lên hay xuống. Đồ thị chỉ có thể phản ánh tình hình thị trường mà thôi.
Giá vận động theo xu thế
Khái niệm về xu thế là khái niệm vô cùng quan trọng trong Phân tích kỹ thuật do đó cần hiểu kĩ về giả định này trước khi muốn tìm hiểu sâu thêm về nó. Mục đích của việc xác lập đồ thị mô tả những biến động giá trên thị trường là nhằm xác định được sớm những xu thế giá, từ đó sẽ tham gia giao dịch trên cơ sở những xu thế này. Trên  thực tế những kĩ thuật ở  đây đều mang tính lặp lại những xu thế giá có từ trước tức là mục đích của Phân tích kỹ thuật là nhằm xác định sự lặp lại của những dạng biến động của giá đã xuất hiện trong quá khứ để có thể tận dụng kinh nghiệm và đưa ra những quyết định phù hợp.
Từ giả định này chúng ta còn có một hệ quả là “một xu thế giá đang vận động sẽ tiếp tục theo xu thế của nó và ít khi có đảo chiều”. Hệ quả này rút ra từ định luật 1 về sự vận động của Newton, do đó nó cách phát biểu khác như sau:   "một xu thế đang vận động sẽ tiếp tục theo xu thế của nó cho đến khi nó đảo chiều”. Nhìn chung tất cả những nghiên cứu nhằm tiếp cận theo các xu thế đều nhằm để đi theo những xu thế giá hiện tại cho đến khi có dấu hiệu đảo chiều.
Lịch sử sẽ tự lặp lại. Phần lớn nội dung của Phân tích kỹ thuật và việc nghiên cứu biến động thị trường đều phải nhằm vào nghiên cứu tâm lý con người. Chẳng hạn như những mô hình giá, những mô hình này đã được xác định và chứng minh từ hơn 100 năm nay, chúng giống như những bức tranh về đồ thị biến động giá. Những bức tranh này chỉ ra tâm lý của thị trường đang là lên giá hay xuống giá. Việc áp dụng những mô hình này đã phát huy hiệu quả trong quá khứ và được giả định rằng sẽ vẫn tiếp tục có hiệu quả trong tương lai bởi chúng dựa trên phân tích nghiên cứu tâm lý con người mà tâm lý con người thì thường không thay đổi. Như  thế giả định này có thể được phát biểu là : “Chìa khóa để nắm bắt tương lai nằm trong việc nghiên cứu quá khứ” hay “tương lai chỉ là sự lặp lại của quá khứ