Mức hoàn lại - Khung giao dịch - Hỗ trợ và Kháng cự
Mức hoàn lại.
Trong bất kì một đồ thị nào ta đều thấy sau một giai đoạn giá chuyển động theo xu thế của thị trường thì giá sẽ hoàn lại một chút trước khi quay trở lại chuyển động theo xu thế cũ. Những chuyển động ngược xu thế này thường có độ lớn ở vào những khoản có thể dự đoán được và được gọi là mức hoàn lại. Mức hoàn lại trung bình thường gặp nhất là 50%. Bên cạnh đó còn có các mức hoàn lại thường thấy khác đó là các mức 1/3 và 2/3. Nói cách khác, nếu chia một xu thế giá thành ba phần thì nói mức hoàn lại thấp nhất là 33% và cao nhất là 66% có nghĩa là ở giai đoạn điều chỉnh của xu thế đó giá sẽ hoàn lại ít nhất 1/3 mức tăng (hay giảm) mà nó đạt được trong xu thế trước đó và mức hoàn lại đó không vượt quá 2/3 mức tăng (hay giảm) trước đó đạt được. Nếu mức hoàn lại cao hơn thì khả năng sẽ xảy ra sự đảo chiều thị trường tức là giá sẽ chuyển động theo xu thế đảo ngược xu thế trước mà không quay lại chuyển động theo xu thế đó.
Trong bất kì một đồ thị nào ta đều thấy sau một giai đoạn giá chuyển động theo xu thế của thị trường thì giá sẽ hoàn lại một chút trước khi quay trở lại chuyển động theo xu thế cũ. Những chuyển động ngược xu thế này thường có độ lớn ở vào những khoản có thể dự đoán được và được gọi là mức hoàn lại. Mức hoàn lại trung bình thường gặp nhất là 50%. Bên cạnh đó còn có các mức hoàn lại thường thấy khác đó là các mức 1/3 và 2/3. Nói cách khác, nếu chia một xu thế giá thành ba phần thì nói mức hoàn lại thấp nhất là 33% và cao nhất là 66% có nghĩa là ở giai đoạn điều chỉnh của xu thế đó giá sẽ hoàn lại ít nhất 1/3 mức tăng (hay giảm) mà nó đạt được trong xu thế trước đó và mức hoàn lại đó không vượt quá 2/3 mức tăng (hay giảm) trước đó đạt được. Nếu mức hoàn lại cao hơn thì khả năng sẽ xảy ra sự đảo chiều thị trường tức là giá sẽ chuyển động theo xu thế đảo ngược xu thế trước mà không quay lại chuyển động theo xu thế đó.
Khung Giao Dịch.
Thị trường có thể ở một trong 3 xu thế là xu thế tăng, xu thế giảm và xu thế dao động ngang. Nhiều người cho rằng thị trường chỉ có thể tăng hoặc giảm, nhưng thực tế có đến 1/3 thời gian giá chuyển động theo một hình mẫu dạng ‘phẳng’ nằm ngang gọi là khung giao dịch. Khung giao dịch là một dải nằm ngang trên đồ thị trong đó bao gồm các dao động của giá trong một giai đoạn dài. Nói chung hầu hết các biến động của thị trường sẽ diễn ra bên trong khung giao dịch. Tuy nhiên khi thị trường có biến động dạng khung giao dịch thì lại rất khó kiếm được lợi nhuận. Khung giao dịch phản ánh thời kỳ mà áp lực cung cầu là tương đối cân bằng và giá duy trì ở mức cân bằng thị trường. Đôi khi người ta còn gọi thời kỳ mà giá biến động theo khung giao dịch là thời kỳ không có xu thế thị trường. Hầu hết các công cụ kinh tế đều được tạo ra để có thể áp dụng vào các thị trường có xu thế tăng hoặc giảm rõ rệt còn khi thị trường ở dang không có xu thế rõ rệt thì các công cụ này nhìn chung hoạt động kém hiệu quả, thậm chí là không thể áp dụng. Đây cũng chính là thời kỳ gây khó chịu nhất cho những người đi theo Phân tích kỹ thuật và gây ra nhiều lỗ nhất. Trong những tình huống ấy nhà đầu tư luôn phải đối mặt với một trong ba quyết định là mua, bán hay đứng ngoài không tham gia vào thị trường và thông thường thì quyết định không tham gia vào thị trường luôn là quyết định sáng suốt nhất.
Thị trường có thể ở một trong 3 xu thế là xu thế tăng, xu thế giảm và xu thế dao động ngang. Nhiều người cho rằng thị trường chỉ có thể tăng hoặc giảm, nhưng thực tế có đến 1/3 thời gian giá chuyển động theo một hình mẫu dạng ‘phẳng’ nằm ngang gọi là khung giao dịch. Khung giao dịch là một dải nằm ngang trên đồ thị trong đó bao gồm các dao động của giá trong một giai đoạn dài. Nói chung hầu hết các biến động của thị trường sẽ diễn ra bên trong khung giao dịch. Tuy nhiên khi thị trường có biến động dạng khung giao dịch thì lại rất khó kiếm được lợi nhuận. Khung giao dịch phản ánh thời kỳ mà áp lực cung cầu là tương đối cân bằng và giá duy trì ở mức cân bằng thị trường. Đôi khi người ta còn gọi thời kỳ mà giá biến động theo khung giao dịch là thời kỳ không có xu thế thị trường. Hầu hết các công cụ kinh tế đều được tạo ra để có thể áp dụng vào các thị trường có xu thế tăng hoặc giảm rõ rệt còn khi thị trường ở dang không có xu thế rõ rệt thì các công cụ này nhìn chung hoạt động kém hiệu quả, thậm chí là không thể áp dụng. Đây cũng chính là thời kỳ gây khó chịu nhất cho những người đi theo Phân tích kỹ thuật và gây ra nhiều lỗ nhất. Trong những tình huống ấy nhà đầu tư luôn phải đối mặt với một trong ba quyết định là mua, bán hay đứng ngoài không tham gia vào thị trường và thông thường thì quyết định không tham gia vào thị trường luôn là quyết định sáng suốt nhất.
Thực tế cũng có một số phương pháp có thể áp dụng để
kiếm lời khi thị trường xuất hiện dạng khung giao dịch, chẳng hạn như sử
dụng các chỉ số dao động thị trường (Oscillators) mà ta sẽ nghiên cứu ở
phần sau. Nhìn chung rất khó có thể dự đoán sự xuất hiện trong tương
lai của mô hình khung giao dịch. Mô hình này cũng có thể kéo dài trong
nhiều tháng, một năm hay nhiều năm. Cũng giống như kênh, khung giao dịch
cũng có các đường biên bên trên và bên dưới, đây chính là các đường
kháng cự và hỗ trợ của khung (ta sẽ nghiên cứu về kháng cự và hỗ trợ ở
phần sau). Những “sự phá vỡ” (break out) ra ngoài khung có thể là các
dấu hiệu quan trọng để tiến hành các giao dịch. Tuy nhiên cũng cần lưu ý
bởi giá cũng thường dao động vượt ra ngoài khung nhưng chỉ với một
lượng nhỏ, sau đó quay trở lại bên trong khung. Đôi khi nguyên nhân của
hiện tượng này là do những lệnh dừng mà nhà đầu tư đã đặt và những lệnh
này tác động đến những vùng giá nằm ngoài khung. Khi những lệnh này kết
thúc thì giá sẽ trở lại dao động bên trong khung giao dịch nếu không có
những lý do liên quan đến những yếu tố tài chính cơ bản hay có sự xuất
hiện khối lượng giao dịch lớn duy trì sự vượt ra ấy. Nhìn chung nhà đầu
tư không nên đi theo ngay những “breakout” mới xuất hiện mà nên chờ thêm
một dao động tiếp theo xác nhận “breakout” này cho dù điều này có thể
làm chậm lại một chút nhưng sẽ tránh được rất nhiều dấu hiệu sai và
tránh được những khoản lỗ.
Hỗ trợ và kháng cự
Việc nghiên cứu về mức hỗ trợ và kháng cự là một trong những vấn đề khá quan trọng đối với Phân tích kỹ thuật. Nó cho phép người nghiên cứu có thêm những cơ sở mới trong việc chọn các loại cổ phiếu để mua hay bán, trong dự đoán các biến động tiềm năng, trong việc chỉ ra những thời điểm mà thị trường có thể gây ra rắc rối cho nhà đầu tư. Trên thực tế, nhiều nhà đầu tư có kinh nghiệm đã xây dựng cho họ một “hệ thống đầu tư” riêng dựa hầu hết vào những nguyên lý về mức kháng cự và hỗ trợ. Việc nghiên cứu về mức kháng cự và hỗ trợ một cách đầy đủ cần rất nhiều thời gian và cần thêm nhiều yếu tố khác, người viết chỉ xin đưa ra một số khía cạnh cơ bản nhất với mục đích đưa ra cơ sở lý thuyết cơ bản nhất về khái niệm quan trọng này của Phân tích kỹ thuật.
Việc nghiên cứu về mức hỗ trợ và kháng cự là một trong những vấn đề khá quan trọng đối với Phân tích kỹ thuật. Nó cho phép người nghiên cứu có thêm những cơ sở mới trong việc chọn các loại cổ phiếu để mua hay bán, trong dự đoán các biến động tiềm năng, trong việc chỉ ra những thời điểm mà thị trường có thể gây ra rắc rối cho nhà đầu tư. Trên thực tế, nhiều nhà đầu tư có kinh nghiệm đã xây dựng cho họ một “hệ thống đầu tư” riêng dựa hầu hết vào những nguyên lý về mức kháng cự và hỗ trợ. Việc nghiên cứu về mức kháng cự và hỗ trợ một cách đầy đủ cần rất nhiều thời gian và cần thêm nhiều yếu tố khác, người viết chỉ xin đưa ra một số khía cạnh cơ bản nhất với mục đích đưa ra cơ sở lý thuyết cơ bản nhất về khái niệm quan trọng này của Phân tích kỹ thuật.
Mức kháng cự và hỗ trợ có ý nghĩa rất quan trọng
trong việc nghiên cứu phân tích các hình mẫu kỹ thuật. Những kiến thức
cơ bản về mức kháng cự và hỗ trợ sẽ giúp người nghiên cứu dễ dàng hiểu
bản chất và các ứng dụng của các hình mẫu đó.
Mức hỗ trợ thường được dùng khá thông dụng. Trên thị
trường phố Wall, bạn có thể nghe thấy việc một nhóm nhà đầu tư luôn sẵn
sàng hỗ trợ thị trường bằng cách mua tất cả các chứng khoán chào bán nếu
giá giảm 5 điểm. Vậy mức hỗ trợ là gì? Ta có thể định nghĩa mức hỗ trợ
là việc mua thực tế hay khả năng mua với khối lượng đủ để làm ngưng lại
xu thế giảm của giá trong một thời kỳ đáng kể (tương đối dài). Mức kháng
cự lại ngược lại với mức hỗ trợ: đó là việc bán, trong thực tế hay tiềm
năng, một khối lượng đủ để thoả mãn tất cả các mức chào mua, do đó, làm
giá ngừng không tăng nữa trong một khoảng thời gian nhất định. Như thế
mức kháng cự và hỗ trợ là gần giống theo thứ tự với khối lượng cầu và
khối lượng cung. Mức hỗ trợ là mức giá ở đó mức cầu cho một cổ phiếu là
đủ để, ít nhất là, làm dừng xu thế giảm giá của thị trường và cũng có
thể đổi chiều xu thế đó, tức là làm xu thế giá đi xuống quay ngược đi
lên. Từ đó ta có định nghĩa về mức kháng cự, đó là mức giá mà ở đó lượng
cung đủ để giá sẽ ngừng không tăng nữa và có thể chuyển động ngược lại
đi xuống. Theo lý thuyết thì mỗi mức giá có một lượng cung và cầu nhất
định. Nhưng khoản hỗ trợ thể hiện sự tập trung của cầu còn khoảng kháng
cự thể hiện sự tập trung của cung. Như vậy với một hình mẫu giá nhất
định, chẳng hạn ta xét với hình mẫu dạng hình chữ nhật (mô hình này phản
ánh giai đoạn thị trường gồm rất nhiều những dao động nhỏ của giá theo
hướng ngang đồ thị chứ không hướng lên hay hướng xuống rõ rệt, hai đường
nối các đỉnh và các đáy của thị trường trong giai đoạn này gần như song
song, không cần thiết phải song song 100% nhưng độ lệch phải rất nhỏ,
hay có thể nói là một dạng của khung giao dịch), đường nối các đỉnh có
thể coi là mức kháng cự, còn đường nối các đáy được coi là mức hỗ trợ.
Nhìn chung trong giai đoạn hai mức này còn phát huy
hiệu lực thì giá sẽ không vượt quá mức kháng cự và không xuống dưới mức
hỗ trợ. Nhưng với tư cách một nhà đầu tư ta sẽ quan tâm hơn đến việc xác
định tại sao và yếu tố nào làm xuất hiện các mức kháng cự và hỗ trợ ở
một mức giá nhất định. Các chuyên gia còn tập trung nghiên cứu thời điểm
giá lên đạt đến mức kháng cự và khi nào giá xuống đến mức hỗ trợ.
Cơ sở của những dự đoán này cũng là những dữ liệu cơ
bản hình thành nên lý thuyết về hỗ trợ và kháng cự, đó là khi giá trị
giao dịch có xu hướng bị tập trung tại một số mức giá có khối lượng các
cổ phiếu được giao dịch lớn. Điều đáng chú ý là tại bất kì mức giá nào
xuất hiện mức khối lượng giao dịch lớn thường đều trở thành điểm đảo
chiều đối với xu thế hiện tại của thị trường và mọi điểm đảo chiều đều
có xu hướng lặp đi lặp lại thường xuyên và hoàn toàn mang tính tự nhiên.
Có một thực tế quan trọng mà nhiều khi một số người quan sát và phân
tích biểu đồ một cách ngẫu nhiên không nhận ra đó là: những mức giá đó
đang dần dần chuyển vai trò từ hỗ trợ thành kháng cự và ngược lại từ
kháng cự thành hỗ trợ. Nếu như biến động của giá vượt qua một đỉnh giá
đã được hình thành trước đó thì đỉnh này sẽ đóng vai trò là khoảng đáy
của xu thế giảm giá (điều chỉnh) sẽ xuất hiện sau xu thế tăng hiện tại
và một đáy sau khi đã bị giá vượt xuống dưới sẽ trở thành khoảng đỉnh
của xu thế tăng sẽ xuất hiện ngay sau đó.
Quá trình hình thành một xu thế thông thường.
Ta sẽ xem xét các ví dụ:
Ta sẽ xem xét các ví dụ:
Giả sử một cổ phiếu đang trong xu thế tăng mạnh và
tăng từ mức giá 12 lên đến 24, đồng thời trên thị trường cũng đang có
một khối lượng cổ phiếu lớn đang được chào bán. Kết quả của việc này là
thị trường có thể phản ứng và hình thành một xu thế điều chỉnh trung
gian (tạm thời), làm giá giảm xuống còn 18, hoặc cũng có thể phản ứng
của thị trường làm xuất hiện hàng loạt những dao động nhỏ quanh mức,
chẳng hạn, từ 24 xuống đến 21 tạo thành một dạng hình mẫu mang tính củng
cố xu thế hiện tại. Sau thời gian điều chỉnh hoặc củng cố này sẽ xuất
hiện một đợt tăng giá mới và đưa giá lên đến 30, tại đó cung lại đầy và
dư, làm ngưng lại đợt tăng giá này. Lúc đó lại có thể xuất hiện một
trong hai dạng mô hình điều chỉnh hay củng cố. Nếu xảy ra điều chỉnh,
câu hỏi đặt ra là xu thế giảm tạm thời này sẽ xuất hiện ở mức nào? Câu
trả lời là mức giá 24, đây là đỉnh đầu tiên của xu thế tăng giá chính
(cấp 1) trên thị trường - mức giá này thấp hơn mức giá hiện tại và tại
đó lại xuất hiện tổng giá trị giao dịch rất lớn. Khi đó nó đóng vai trò
và hoạt động như một mức kháng cự, tạo ra sự ngưng tăng hay đảo chiều
của đợt tăng giá đầu tiên. Sau khi bị vượt qua thì vai trò của nó lại là
mức hỗ trợ, làm ngưng hay có thể đảo chiều, dù rất ít xu thế giảm giá
đang diễn ra trên thị trường.
Một ví dụ tương tự đưa ra với một cổ phiếu đang trong
xu thế giá giảm. Giả sử cổ phiếu đang ở một đỉnh lớn của toàn thị
trường ở mức giá 70, giá giảm xuống còn 50. ở tại mức 50 xuất hiện một
đỉnh điểm diễn ra các giao dịch nhưng chỉ mang tính tạm thời. Thị trường
có tổng khối lượng giao dịch lớn, giá tăng lên, có thể lại trượt xuống
một chút như một dạng kiểm tra mức giá 50 có thực sự là một điểm dừng
quan trọng của thị trường hay không. Sau đó xuất hiện giai đoạn hồi phục
đưa giá lên 60. Tại mức 60 sức mua yếu dần, xu thế giá đảo lại và đi
xuống, giá sẽ giảm mạnh hơn ở đợt giảm mới này và làm xuất hiện một mức
đáy thấp hơn là 42. Đến đây, lặp lại thời kỳ trước, nhu cầu mua lại tăng
lên và lại xuất hiện quá trình hồi phục lần hai. Chúng ta có thể tự tin
chờ đợt hồi phục từ mức giá 42 này lên sẽ tăng lên đến mức kháng cự (đã
được kiểm tra là “mạnh”) đó là mức giá 50. ở đợt giảm lần đầu mức giá
này đóng vai trò mức hỗ trợ, bây giờ nó đóng vai trò mức kháng cự, mức
đáy lúc trước trở thành mức đỉnh của thị trường.
Vậy ta đặt ra câu hỏi tại sao có sự chuyển vai trò ở
hai ví dụ trên? Ta bắt với ví dụ thứ 2 trước. Giá đầu tiên giảm xuống
đến 50 và xuất hiện khối lượng giao dịch tương đối lớn, rồi lại đảo
chiều tăng lên 60 nhưng lực tăng yếu dần. Ở mức giá 50, rất nhiều cổ
phiếu đã được giao dịch, với mỗi người bán đều có ít nhất một người mua
tương ứng. Một số người đã mua nhưng với chủ định nắm giữ trong ngắn hạn
và đã bán đi, bây giờ họ không còn quan tâm đến loại cổ phiếu này. Một
số khác là những nhà đầu tư ngắn hạn và thậm chí cả một số chuyên gia có
thể đã mua ở mức giá 50 bởi đơn giản là họ thấy thị trường đang ở một
mức đáy tạm thời và mua với mong muốn kiếm lãi khi giá tăng lên theo dự
kiến của họ, hoàn toàn có thể giả sử họ đã thực hiện được mục đích của
mình và đã thoát ra khỏi thị trường trước khi giá tụt xuống dưới mức 50.
Với đa số những nhà đầu tư còn lại, quyết định mua của họ là do họ thấy
mức giá 50 là mức giá thấp đủ thảo mãn họ bởi chỉ vài tháng trước giá
cổ phiếu được bán trên mức 70, rõ ràng 50 là một mức giá hời, đồng thời
họ cũng cho rằng giá sẽ lại lên và lên nữa trong thời gian dài.
Nhưng hãy đặt mình vào vị trí của những người vừa mua
cổ phiếu đó. Họ nhìn thấy giá tăng hàng ngày, lên 55 rồi lên 58 rồi đến
60, những nhận định của họ lúc trước có vẻ đúng và họ vẫn tiếp tục nắm
giữ cổ phiếu. Rồi xu thế tăng này yếu đi, giá lại giảm xuống còn 57, 55
rồi 52 rồi lại về 50. Họ có lo lắng một chút những rồi lại vẫn cho rằng
50 là mức rất rẻ, vẫn hời, đặc biệt khi thị trường dừng lại ở mức giá 50
trong một thời gian ngắn.
Rồi giá lại giảm tiếp phá vỡ mức giá 50. Lúc đầu có
thể họ vẫn hi vọng đây chỉ là mức giảm tạm thời, là một chút biến động
của giá và thị trường sẽ hồi phục nhanh chóng. Thế nhưng hi vọng ấy mất
đi khi xu thế giảm giá vẫn tiếp tục và không hề tỏ ra là sẽ có điều
chỉnh. Những nhầ đầu tư bắt đầu tỏ ra lo lắng, có điều gì đó không ổn đã
xảy ra. Cho đến khi giá giảm còn 45, mức giá hời lúc trước không còn là
một quả cam ngọt nữa mà là một quả chanh.
Với ví dụ thứ nhất về xu thế tăng giá của thị trường.
Khi giá tăng từ 12 đến 24 các nhà đầu tư đều cho rằng 24 là mức giá
tương đối cao so với 12 (mức giá mà họ đã mua vào) do đó họ bán, khi mà
sau đó giá giảm xuống một chút đến 20, họ đều tự chúc mừng cho sự sáng
suốt của mình. Nhưng rồi xu thế giá lại đảo chiều, giá tăng vọt lên 30,
họ sẽ không còn cảm thấy như vậy nữa. Họ ước gì mình vẫn nắm giữ cổ
phiếu đó và có thể muốn mua lại cổ phiếu này, tất nhiên là không mua cao
hơn 24, rõ ràng nếu giá giảm xuống còn 24 sẽ có rất nhiều nhà đầu tư
lại mua vào với hi vọng kiếm lời nhiều hơn.
Những ví dụ trên đây phản ánh một cách chung nhất tâm
lý của những nhà đầu tư trên thị trường và tác động của họ tới việc
hình thành cũng như sự chuyển vai trò của mức kháng cự và hỗ trợ. Qua đó
ta cũng nhận thấy rằng tại một mức giá kháng cự hay hỗ trợ, nếu giá dao
động quanh nó càng lâu thì vai trò và sức mạnh của nó càng lớn và một
xu thế giá phải thực sự mạnh mới có thể phá vỡ hay vượt qua được nó. Một
mức kháng cự hay hỗ trợ được duy trì càng lâu thì những biến động có
khả năng vượt qua nó càng có ý nghĩa và có thể được coi là những dấu
hiệu cho những biến động lớn của thị trường.
Thêm một nhận xét nữa là khối lượng giao dịch cũng có
ý nghĩa rất quan trọng trong xác định các mức kháng cự và hỗ trợ. Nếu
mức kháng cự hay hỗ trợ hình thành mà không có dấu hiệu gì về sự thay
đổi trong khối lượng giao dịch thì mức độ tin cậy cũng như độ bền vững
của chúng là không cao. Trái lại nếu một mức hỗ trợ chẳng hạn được hình
thành với khối lượng giao dịch rất lớn, điều này có nghĩa là tại đó nhu
cầu giao dịch là rất lớn, rõ ràng mức độ phản ánh cũng như ý nghĩa của
nó là cao và quan trọng hơn nhiều
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét